Nguyên nhân gây bệnh trĩ
Trong dân gian vẫn lưu truyền câu: “Thập nhân cửu trĩ” có nghĩa là cứ 10 người thì có tới 9 người bị mắc bệnh trĩ ở các mức độ khác nhau. Có 2 loại bệnh trĩ: Trĩ triệu chứng là hậu quả của nhiều loại bệnh lý khác gây nên và bệnh trĩ là bệnh lý tại chỗ gây ra như viêm sơ tĩnh mạc, viêm ống hậu môn…
Bệnh trĩ là tình trạng bệnh lý của các đám rối mạch máu trong ống hậu môn, khi máu không được lưu thông, bị ứ đọng làm tĩnh mạch căng và giãn dần, tùy từng mức độ gây nên nhiều hay ít búi trĩ. Tĩnh mạch đã bị căng mỏng, dưới áp lực cao khi đại tiện nên dễ bị vỡ gây chảy máu. Mức độ chảy máu cũng khác nhau tùy thuộc vào mức độ mắc bệnh. Khi hệ thống mạch máu bị căng, máu dễ thẩm thấu ra ngoài, niêm mạc phủ lớp mạch máu cũng phát triển để bảo vệ thành mạch, dần cũng bị giãn theo. Sự liên kết giữa các thành phần của ống hậu môn vốn đã lỏng lẻo nay càng bị nặng hơn, dẫn đến tình trạng sa búi trĩ, niêm mạc ống hậu môn, thậm chí cả thành ống hậu môn ra ngoài.
Có nhiều nguyên nhân và yếu tố thuận lợi để dẫn tới bị bệnh trí như: yếu tố di truyền, có tính gia đình; có những rối loạn nhu động ruột như táo bón, ỉa chảy, mót rặn..; thay đổi nội tiết theo chu kỳ kinh nguyệt, mang thai sinh đẻ nhiều…; có bệnh phổ biến làm tăng áp lực tĩnh mạch cửa, thoát vị bẹn, bệnh đường sinh dục, tiết niệu, gan…hay tư thế làm việc: đứng hay ngồi nhiều, ít đi lại và vận động. Vì vậy, để xác định chính xác nguyên nhân gây ra bệnh trĩ là rất khó.
Triệu chứng hay gặp ở bệnh trĩ
Những bệnh nhân bị mắc bệnh trĩ đến khám và điều trị thường có những dấu hiệu bệnh lý như: chảy máu khi đại tiện; thấy người mệt mỏi, hay hoa mắt, chóng mặt ở những bệnh nhân bị mất máu nhiều; đau rát hậu môn thất thường, đau nhiều về đêm hoặc khi đứng lâu có cảm giác khó chịu, rát hậu môn, xệ hậu môn khi ngồi nhiều; rỉ nước và ngứa vùng hậu môn do biến chứng viêm hậu môn, trực tràng; sưng nề vùng hậu môn do niêm mạc bị sa ra ngoài, có thể co lên tự nhiên hoặc phải lấy tay đẩy.
Thông thường, đa phần người mới mắc bệnh hay ở mức độ nhẹ thì nhìn ngoài không có dấu hiệu gì. Khi bị nặng thăm khám tại chỗ thấy búi trĩ ở ngay ngoài hậu môn, tách rời nhau hoặc từng bó lùi xùi, màu tím mềm ấn vào xẹp lại không đau hoặc đau khi đang bị viêm, hoặc thấy sa cả niêm mạc trực tràng hoặc thấy giãn cơ thắt hậu môn.
Thăm trực tràng và soi trực tràng: búi trĩ cương tụ, sẫm màu, thành giãn mỏng, đụng vào chảy hoặc rỉ máu, niêm mạc trực tràng sa, giãn. Ngoải ra, còn có khả năng phát hiện một số bệnh tại chỗ trong hậu môn như ung thư trực tràng, polyp, nhú niêm mạc, nứt kẽ hậu môn, condylôm polyp…
Khám toàn thân nhiều khi phát hiện nhiều loại bệnh khác nhau như viêm gan, viêm đại tràng co thắt, bệnh tim mạch…mà trĩ là hậu quả việc mắc các bệnh đó.
Từng trường hợp và ở từng mức độ mà có một hay trong nhiều dấu hiệu nêu trên. Tuy vậy, có tới gần 1/4 người bị trĩ nhưng hoàn toàn khỏe mạnh, không có dấu hiệu bệnh lý nên không biết bị bệnh mà chỉ được phát hiện khi khám sức khỏe định kỳ, khám bệnh gì đó có thăm khám hậu môn, trực tràng.
Trĩ lâu ngày không điều trị sẽ gây viêm hậu môn mãn tính, hẹp trực tràng, áp xe, rò hậu môn, sa trực tràng, nứt kẽ hậu môn và đặc biệt suy nhược cơ thể nặng do mất máu, thoái hóa thành ung thư, ảnh hưởng nghiêm trọng tới tính mạng của người bệnh.
Các phương pháp điều trị bệnh trĩ
Từ rất lâu và đến tận ngày nay đã có rất nhiều phương pháp điều trị bệnh trĩ khác nhau như:
+ Thắt búi trĩ bằng dây thun: sử dụng vòng cao su, lồng vào cổ búi trĩ, thắt nghẹt lại để máu không tới nuôi búi trĩ, búi trĩ tự teo và rụng.
+ Các phương pháp điều trị nội khoa cũng được thực hiện với việc dùng thuốc để điều trị trĩ. Hiện nay một số thuốc vẫn bán trên thị trường như Grinkor Fort, Proctolog, Daflon…
+ Y học cổ truyền hiện có nhiều công trình có giá trị, Một số bài thuốc gia truyền v.v..để chữa trĩ. Đông y có điểm lợi là sử dụng cây cỏ, dễ kiếm, giá thành rẻ. Tuy vậy, với bệnh nhân bị trĩ nội từ độ III trở lên, trĩ ngoại, trĩ vòng và trĩ hỗn hợp thì điều trị nội khoa chỉ có tác dụng chữa triệu chứng hay điều trị những đợt bị cấp như chảy máu, đau rát, sa …mà khó có thể điều trị khỏi.
+ Ngoài ra còn một số phương pháp khác như liệu pháp làm đông bằng tia hồng ngoại; đốt điện với máy đốt hai cực, máy đốt một cực hay dòng điện trực tiếp… Ưu điểm của các phương pháp là làm không đau, bệnh nhân có thể về nhà trong thời gian ngắn nhưng lại dễ tái phát.
+ Đối với trĩ nặng độ III, độ IV, trĩ ngoại, trĩ hỗn hợp và trĩ vòng, trước đây thường dùng phương pháp phẫu thuật cắt trĩ, thịnh hành là phương pháp Milligan-Morgan. Trong phương pháp này, trĩ được cắt và cuống được khâu cột lại. Nếu trĩ vòng phải cắt thêm búi trĩ phụ nhưng phải cắt dưới niêm mạc để tránh teo hẹp hậu môn về sau… Hoặc cắt trĩ theo phương pháp Longo (sử dụng máy cắt đồng thời khâu nối); Hoặc dùng tia laser.
Điều trị bằng phẫu thuật là phương pháp triệt để nhất, hiệu quả cao và ít tái phát. Tuy nhiên phương pháp này có nhược điểm là bệnh nhân sau mổ sẽ bị đau khá lâu, do hậu môn tập trung nhiều dây thần kinh. Bên cạnh đó, do vị trí vết thương ở hậu môn nên dễ bị nhiễm trùng. Mỗi khi đi đại tiện, hậu môn lại phải căng ra nên vết thương phải 2- 3 tháng mới thực sự liền hẳn và cũng có thể gặp biến chứng sau phẫu thuật. Đặc biệt, các phương pháp phẫu thuật nói riêng và sử dụng công nghệ cao đòi hỏi bác sĩ phải thật sự có kinh nghiệm và trang thiết bị chuẩn. Tất cả các phương pháp đều có những ưu nhược điểm và cũng chỉ phù hợp với từng nhóm đối tượng cụ thể.
Từ trước tới nay, phương pháp chích xơ búi trĩ được nhiều cơ sở y tế trong cả nước thực hiện với những loại thuốc và các kỹ thuật chích xơ khác nhau. Chích xơ búi trĩ là một phương pháp trị bệnh trĩ bảo tốn. Tiêm xơ là làm mất búi trĩ bằng cách tiêm, phong bế búi trĩ bằng một số loại thuốc, hoặc hỗn hợp chất gây xơ vào búi trĩ, tác dụng làm mạch máu búi trĩ xơ lại, giảm độ căng mỏng nhưng vẫn còn chức năng lưu thông máu.
Từ năm 1985, biện pháp tiêm điều trị nội khoa đã áp dụng thực hiện điều trị cho bệnh nhân tại nước ta. Đồng thời cải tiến quy trình tiêm và kỹ thuật tiêm từ các chuyên gia người Pháp được gọi là Phương pháp tiêm ĐNT 1985. Phương pháp này nhằm bảo tồn, xem xét một số điểm tiêm, số lần tiêm và khoảng cách các lần tiêm búi trĩ phù hợp với từng thể loại bệnh trĩ và mức độ bị bệnh, làm đã giảm đáng kể những tác dụng phụ như đau, chảy máu hay choáng; Giảm liều lượng thuốc tiêm mỗi lần tiêm xuống còn một nửa nên an toàn, hiệu quả.
Từ 2007 – 2011, nhóm nghiên cứu gồm các phó giáo sư, tiến sĩ, bác sĩ của bệnh viện Bạch Mai, Học Viện Quân y, Viện K và Viện Chiến lược và Chính sách Y tế đã nghiên cứu, theo dõi và đánh giá trên 3616 trường hợp với kết quả tốt. Kết quả cho thấy, phương pháp điều trị tiêm búi trĩ đơn giản, an toàn và hầu như không có tai biến. Tránh cho bệnh nhân không phải đau đớn, không phải mất máu và không phải nằm viện. Đặc biệt là không phải nghỉ lao động trong thời gian điều trị và không phải gặp các tai biến mà các phương pháp cắt, mổ thường mang lại. Đến nay cũng đó có nhiều triệu lượt bệnh nhân bị trĩ điều trị hiệu quả với tiêm ĐNT 1985.
Theo đánh giá của các chuyên gia, hiệu quả khỏi bệnh cao và tỷ lệ tái phát rất thấp, chỉ vào khoảng 2%/2 đến 5 năm. Trĩ nội độ 2 sau 5 lần tiêm, độ nội độ 3 sau 7 lần tiêm, trĩ nội độ bốn sau 9 – 10 lần tiêm và trĩ ngoại, trĩ hỗn hợp và trĩ vòng tối đa là 10 lần. Ngoài ra, phương pháp có thể mở rộng để điều trị cho các thể trĩ ngoại, trĩ hỗn hợp và trĩ vòng theo từng quy trình và kỹ thuật cụ thể, với một số can thiệp đơn giản với hiệu quả khỏi bệnh cao và ít tái phát.
Cơ chế của phương pháp này là kết hợp giữa tác dụng của thuốc gây xơ tại các điểm tiêm, điểm huyệt theo kinh nghiệm của Đông y, vừa đảm bảo độ an toàn và đem lại hiệu quả cao nhất. Thuốc được tiêm trực tiếp vào các búi trĩ đang căng giãn, vào các điểm huyệt vùng quanh ống hậu môn, dưới niêm mạc, thuốc lan tỏa ngay trong lòng tĩnh mạch và xung quanh búi trĩ đang căng giãn ở vùng dưới niêm mạc. Do đó thuốc tác động trực tiếp trên thành mạch, kích thích phản xạ thần kinh bảo vệ vùng ống hậu môn khi có các yếu tố tác động nên ngay lập tức búi trĩ co lại.
Đây là một ưu điểm vượt trội so với các phương pháp thắt và cắt, hoặc mổ. Trên phương diện chức năng sinh lý, hệ thống mạch máu vùng ống hậu môn, trực tràng có nhiệm vụ lưu chuyển máu. Vì khi cắt, thắt đã làm mất chức năng lưu thông của các đám rối mạch máu trong khi lưu lượng máu qua đây vẫn ở mức bình thường, do vậy, lượng máu lưu thông sẽ dồn sang hệ thống mạch máu khác, kết quả lại gây ra trĩ và đó là lý do tại sao trong điều trị bệnh trĩ rất hay bị tái phát.
Nguồn: https://giadinh.suckhoedoisong.vn/benh-tri-va-cac-phuong-phap-dieu-tri-hieu-qua-172241004081718343.htm