Xứ Thanh là hình ảnh của đất nước Việt Nam thu nhỏ, có đầy đủ các vùng địa lý, tự nhiên gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Xứ Thanh cũng là một trong những trung tâm của nền văn hóa Đông Sơn rực rỡ. Chính điều kiện tự nhiên, địa lý nhân văn và lịch sử đã tạo dựng cho miền đất này nhiều dấu ấn văn hóa sâu đậm, mà dân ca là một trong những loại hình đặc sắc, góp phần làm nên bức tranh dân ca rực rỡ của nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng.
Đồng bào Thổ huyện Như Xuân hát dân ca.
Với địa bàn sinh sống, phương thức sản xuất gắn với cộng đồng dân cư, có thể phân định Thanh Hóa có 3 vùng dân ca rõ nét, đó là: Vùng dân ca của đồng bào thiểu số miền núi, rẻo cao gắn với canh tác nương rẫy và ngôn ngữ tiếng dân tộc. Trên địa bàn 11 huyện miền núi với các dân tộc thiểu số từ bao đời họ đã sáng tạo nên các loại hình dân ca đặc sắc. Đồng bào Thái (hát khặp), Mường (hát xường, đang, bọ mẹng…), Mông (hát gầu), Dao (hát phả dung), hát Tơm – dân ca Khơ Mú, hát Chậm đò ho – dân tộc Thổ. Trong số dân ca của 6 tộc người nêu trên thì dân ca của người Mường và Thái là tiêu biểu hơn cả. Vùng dân ca của người Kinh – cư dân lúa nước, bao gồm các huyện đồng bằng và đồng bằng ven biển. Dân ca tiêu biểu: Hát nghi lễ, hát đối đáp, hò sông nước, hát ca trù, hát tuồng, chèo, trống quân… Vùng dân ca đồng bằng Thanh Hóa còn có các tiểu vùng: dân ca Đông Anh, hò sông Mã, Chèo chải, hát khúc Tĩnh Gia… Vùng dân ca miền duyên hải bao gồm 6 huyện thị, thành phố ven biển, cửa sông: Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hóa, Quảng Xương, TP Sầm Sơn, thị xã Nghi Sơn với các loại hình dân ca tiêu biểu như hát giao duyên nam nữ, hò biển, hát kể nhật trình đường sông, đường biển, hát trống vả…
Dân ca là tấm gương phản ánh tâm hồn, tình cảm của con người và miền đất xứ Thanh, thể hiện sự ứng xử của cá nhân và cộng đồng đối với môi trường tự nhiên, xã hội phù hợp với yêu cầu phát triển của cuộc sống. Dân ca Thanh Hóa là tiếng ca yêu đời, yêu người, trọng đạo lý, giàu nghĩa nhân văn… thể hiện nếp sống, quan hệ giữa con người với tự nhiên và xã hội, hướng về cội nguồn dân tộc. Bảo tồn, phát huy giá trị dân ca Thanh Hóa nhằm phát huy những gì tốt đẹp, cái hay, cái tiến bộ… làm nên giá trị, tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam và sắc thái văn hóa tỉnh Thanh.
Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, các thế hệ người dân trên đất xứ Thanh đã sáng tạo nên nhiều loại hình dân ca đặc sắc. Đặc biệt, dân ca Thanh Hóa đã kết tụ nên các giá trị về lịch sử, cố kết cộng đồng, đạo đức thẩm mỹ, văn hóa – nghệ thuật và giá trị ứng xử với tự nhiên.
Dân ca Thanh Hóa là sự kết tinh của những giá trị lịch sử. Văn hóa phản ánh hiện thực của cuộc sống qua từng thời kỳ lịch sử. Thanh Hóa là miền đất mở, luôn giao lưu và tiếp biến văn hóa với các nước trong khu vực và thế giới. Mặc dù ảnh hưởng, giao lưu tiếp biến với văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ, song dân ca xứ Thanh vẫn bảo lưu được những giá trị truyền thống, sắc thái bản địa, đồng thời tiếp nhận, lựa chọn được những cái mới tiến bộ để làm phong phú thêm những gì đã có, đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần của nhiều thế hệ người Việt xứ Thanh. Qua dân ca giúp cho quần chúng Nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ hiểu về là nguồn gốc dân tộc Việt và những con người xứ Thanh từ thuở bình minh mở nước và trải dài suốt nhiều nghìn năm dựng nước và bảo vệ đất nước.
Xứ Thanh là mảnh đất in dấu mạch nguồn văn hóa dân tộc, dân ca theo dòng chảy văn hóa từ vùng đất Tổ trung châu và lưu lại ở vùng non xanh, nước biếc tỉnh Thanh. Dân ca chính là tấm gương phản chiếu lịch sử hình thành vùng đất, tộc người, phương thức sống và đấu tranh, vật lộn với tự nhiên và xã hội khắc nghiệt để trụ vững và tồn tại của những cư dân Thanh Hóa trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và bảo vệ đất nước.
Dân ca Thanh Hóa có ý nghĩa xã hội nhân văn sâu sắc và sự cố kết cộng đồng bền chặt. Mối dây liên kết bền chặt đó được thể hiện trong công việc thường ngày, từ việc đẩy thuyền cho thuyền rời bến, giã gạo, ru con, đối đáp nam nữ… trong quan hệ giữa chủ thuyền với “trai bạn thuyền”, giữa chủ đò và các trai đò. Trong hành trình đò dọc trên dòng sông Mã, mỗi khi đò mắc cạn thì tiếng hò là hiệu lệnh để mọi người hợp sức đưa thuyền bè vượt qua đá ngầm, vực xoáy về bến an toàn. Mối dây liên kết ấy còn biểu hiện trong công việc kéo gỗ, dựng nhà, đánh bắt cá… cần phải có sự hợp lực của mọi người, là sự cộng sức của các tay chèo trong các cuộc bơi chải, đua thuyền. Từ câu xướng, lời xô, một người xướng, nhiều người đáp, tất cả hợp thành và bùng lên ngọn lửa, nhân lên sức mạnh đoàn kết muôn người và cả cộng đồng để vượt qua gian khó, làm cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.
Dân ca Thanh Hóa cũng luôn hướng về cội nguồn dân tộc, thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, tri ân công đức đối với những người đã có công bảo vệ, dựng xây đất nước nói chung, quê hương Thanh Hóa nói riêng, như: “Tùng Sơn nắng quyện mây trời/ Dấu xưa Bà Triệu rạng ngời sử xanh” và “Nhất cao là núi Lam Sơn/ Có ông Lê Lợi trong ngàn bước ra”…
Trong tư tưởng, tình cảm người tỉnh Thanh luôn gửi gắm niềm tin, ước vọng của mình đối với các vị anh hùng dân tộc, các vị thần linh đã có công bảo vệ, dựng xây quê hương, xứ sở. Trong tâm trí của cư dân sông nước xứ Thanh những anh hùng có tên và không tên, các vị thần linh luôn hiện hữu trong lời ca ghi tạc công ơn, trong khúc hát thờ thần, đồng hành cùng với họ trong cuộc mưu sinh, cùng chung vui với niềm vui bình dị của dân và san sẻ những lo toan, vất vả, là chỗ dựa tinh thần, nhân lên sức mạnh và lòng quả cảm cho người dân giúp họ trụ vững trên đường đời nhiều gian lao, vất vả.
Thông qua dân ca được sáng tạo, thể hiện trong cuộc sống, sinh hoạt và các nghi thức biểu đạt mang tính nghệ thuật như lễ hội, diễn xướng, trò chơi… những hình thức tế lễ, hát thờ thần, hát ca trong hội hè, là môi trường thuận lợi để nảy sinh, sáng tạo và trao truyền những giá trị nghệ thuật dân gian đặc sắc tới mỗi làng quê và đến với từng người, giúp họ cảm nhận được cái hay, cái đẹp và giá trị của dân ca.
Hát thờ thần, hát giáo chân sào, hát kết hợp với múa đèn… là hình thức hát nghi lễ thường gặp trong mỗi dịp tế lễ thần linh. Hát nghi lễ là hình thức người dân các làng quê dùng nghệ thuật lời ca, tiếng đàn, nhịp phách để bày tỏ tình cảm, sự biết ơn, lòng tôn kính trong một không gian thiêng của cả cộng đồng đối với thánh thần bảo trợ cho họ trong cuộc sống. Trong lễ hội còn có hát tuồng, hò biển và hò sông nước, hát đối đáp nam nữ; các trò chơi thi tài khéo léo như đua thuyền, lắc thúng, đấu vật, đu tiên, đi cà kheo, câu mực, đánh tủm, đan lưới, chắp quại… diễn ra sôi động, đó là một “sân khấu” có quy mô lớn, không gian rộng mở, mọi người đều tham gia sáng tạo, biểu diễn và hưởng thụ văn hóa bình đẳng, cùng nhân lên niềm vui cộng cảm. Các thể loại dân ca trong sinh hoạt tín ngưỡng, lễ hội ở các làng quê đã khơi nguồn và định hình những giá trị nghệ thuật có chức năng giải trí, giáo dục và thẩm mỹ, xây dựng con người ngày càng hoàn thiện về thể chất và tâm hồn.
Về giá trị ứng xử với tự nhiên, dân ca là một trong những thành tố văn hóa thuộc hình thái ý thức xã hội, chính là phản ánh sự nhận thức, thể hiện thế ứng xử của con người với tự nhiên và xã hội, qua đó dần hình thành nên những giá trị giúp con người giao tiếp, ứng xử với thế giới xung quanh theo hướng có lợi và nhân văn.
Cư dân các làng, bản tự bao đời dấn thân trong môi trường núi, sông nước, họ coi “biển khơi là mẹ, cánh buồm là cha”, “sống nhờ rừng, chết cũng nhờ rừng”… Họ nhận thức được nguồn lợi lớn lao về nguồn lâm thủy sản do núi rừng, ruộng đồng, sông biển mang lại cho cuộc sống của mỗi con người. Qua trải nghiệm họ dần tích lũy được những kinh nghiệm quý giá trong cuộc mưu sinh và hành trình đầy thử thách cam go trong môi trường sống. Họ quan sát: “Trông trời, trông đất, trông mây/ trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm” để rồi tìm ra quy luật của tự nhiên, biển trời, sông nước gắng công “Ăn cơm bằng đèn, đi cấy sáng trăng”, để rồi mong ước công lao sẽ được đền đáp trong mùa gặp ấm no, hạnh phúc tràn đầy: “Bao giờ lúa chín bông vàng/ Để anh đi gặt cho nàng mang cơm”…
Trải qua thời gian, dân ca Thanh Hóa đã kết tinh thành giá trị, thể hiện nhân cách, tâm hồn, tình cảm của mỗi con người nơi đây. Dân ca Thanh Hóa đã và đang được bảo tồn, phát huy trong cuộc sống, góp phần tỏa hương sắc vào vườn hoa dân ca của dân tộc; là hành trang, động lực giúp người dân xứ Thanh vươn tới, xây dựng cuộc sống ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
Bài và ảnh: Hoàng Minh Tường