Bắc Giang là một trong những trung tâm Phật giáo của Đại Việt thời Lý-Trần, đặc biệt là thời nhà Trần khi Phật giáo ở Bắc Giang gắn liền với Thiền phái Trúc Lâm. Giá trị của trung tâm Phật giáo Bắc Giang chính là tinh thần nhập thế, “sống đời vui đạo”, kết hợp hài hoà giữa Đạo và Đời, giữa vật chất và tâm linh, giữa phát triển kinh tế và bảo tồn văn hoá được thể hiện trong “Cư trần lạc đạo” của Phật hoàng Trần Nhân Tông.
Bài học từ “Cư trần lạc đạo”
Cuối thời nhà Lý đầu thời nhà Trần, nước ta phải đối diện với các vấn đề khủng hoảng khiến thiền sư Đạo Huệ than “Loạn lạc tứ tung do tham ái mà tới”. Trong bối cảnh đó, Trần Nhân Tông lập ra Thiền phái Trúc Lâm thể hiện ý chí của Ngài là xây dựng một quốc gia Đại Việt độc lập cả về lãnh thổ, chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục và tín ngưỡng tâm lý bằng minh triết của Đại Việt. Minh triết đó được cụ thể hoá bằng học thuyết “Cư trần lạc đạo” được diễn đạt đơn giản bằng một ngôn ngữ bình dân:
Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên
Đói ăn, mệt mỏi phải ngủ liền
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm
Đối cảnh vô tâm chớ hỏi Thiền
(Bản dịch của Nguyễn Thanh Huy)
Các tăng, ni, đại biểu trải nghiệm in mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm (Yên Dũng). |
Có thể nói “Cư trần lạc đạo” là sự kết tinh những gì tinh túy nhất của các dòng thiền hiện có lúc bấy giờ như Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường, kết hợp Nho- Lão- Phật thể hiện tư tưởng “tam giáo đồng nguyên”, “hào quang đồng trần’ với truyền thống tâm linh Phật giáo Việt Nam. Từ tuệ giác và định lực của mình, Trần Nhân Tông đã xây dựng một triết lý Trung Đạo, hay triết lý hành động thực tiễn được gói gọn trong hai từ: Cư trần và Lạc đạo.
Trần Nhân Tông đã vượt lên tư tưởng nhị nguyên đương thời đối lập Đạo với Đời để làm cho Đạo và Đời hoà quyện vào nhau: Trong Đạo có Đời, trong Đời có Đạo. Đó chính là tinh thần nhập thế của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử để làm cho Phật giáo Việt Nam thuần Việt, không giống với bất cứ trường phái Phật giáo nào khác. Chính triết lý “Cư trần lạc đạo” đã làm cho Phật giáo luôn đồng hành cùng dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước cũng như trong công cuộc kiến thiết xây dựng, giao lưu, hội nhập kinh tế và văn hóa của dân tộc Việt Nam bằng sức mạnh và khát vọng Việt Nam.
“Cư trần” là nền móng, là vấn đề cơ bản nhất của con người. Do vậy, các giáo lý nhà Phật phải gắn với đời sống bình dị, tự nhiên của con người, đất nước và thời đại. Chưa “cư trần” thì đừng nói gì đến “lạc đạo”. Chưa giải quyết được những vấn đề con người đang phải đối mặt trong thực tế thường nhật mà cứ nói đến những giáo lý cao xa, huyền diệu thì đó chỉ là những lời giáo điều, không thể đi vào lòng người. Mọi giáo lý nếu không xuất phát từ thực tế và không giúp giải quyết những vấn đề do thực tế cuộc sống đặt ra, không mang lại sự an lạc cho con người thì dù có hay đến mấy đi nữa những giáo lý đó chỉ là sự giáo điều.
Những tấm khắc của bộ mộc bản “Cư trần lạc đạo phú” tại chùa Vĩnh Nghiêm (Yên Dũng). |
“Lạc đạo” khi dựa trên “cư trần” chính là con đường tìm lại chính mình. Con đường đó được khơi mở bằng suối nguồn tâm linh và đưa con người đến chỗ nhận ra Phật không ở đâu xa mà Phật ở ngay chính trong ta, hay “Phật là ta”. Nói theo lời của quốc sư Phù Vân thì “trong núi vốn không có Phật, Phật ở ngay trong lòng, lòng lặng mà hiểu, đó chính là chân Phật”.
Thiên đường không đâu xa mà thiên đường ở ngay trong cuộc sống của mỗi con người khi họ nhận ra Phật trong chính thân thể họ. Như vậy, “lạc đạo” là tuỳ duyên. Tuỳ duyên là biết sống thích ứng theo môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và hơi thở của thời đại. Tùy duyên không phải là sống buông thả như cánh bèo trôi trên sông. Tuỳ duyên là sống theo minh triết rằng tất cả vạn pháp hiện hữu đều do duyên sinh, duyên khởi, tương tục và tương tác. Đó là con đường “lạc đạo”.
“Cư trần” hàm nghĩa không thể bỏ qua đời sống vật chất, không thể không quan tâm đến phát triển cuộc sống vật chất vì suy cho cùng “có thực mới vực được đạo”. Nhưng phát triển kinh tế theo con đường vô minh thì sẽ mang đến kết quả tự huỷ diệt. Phát triển kinh tế theo tinh thần “lạc đạo” là làm giàu để mang lại lợi ích cho cộng đồng.
“Cư trần lạc đạo” không chỉ là Phật pháp mà còn là một triết lý sống cho mọi chúng sinh. Do cuộc sống biến đổi không ngừng, khó lường nên con người cần hiểu đạo tuỳ duyên, lấy đó làm ánh đuốc soi cho con đường đời của mình để có thể sống an vui. Để hiểu được đạo tuỳ duyên thì phải thực hành tu tập chuyển hoá thân tâm bằng con đường hướng nội. Ở quy mô dân tộc, một dân tộc biết tìm sức mạnh của chính mình ngay trong những giá trị tinh thần của dân tộc thì dân tộc đó sẽ có một sức mạnh đoàn kết toàn dân không một kẻ thù nào có thể chinh phục được. Đây là một giá trị văn hoá và lịch sử vô giá đối với dân tộc Việt Nam ta và các thế hệ người Việt Nam có trách nhiệm giữ gìn, phát huy, quảng bá giá trị đó với nhân loại.
Triết lý trong “Cư trần lạc đạo” có thể gói gọn vào mấy từ nhập thế, tuỳ tục, tùy duyên nhưng bất biến để thích ứng với những biến động không ngừng của cuộc sống tự nhiên và xã hội. “Bất biến” là cái hợp lý, “tùy duyên” là cái hợp thời. Trong một thế giới đang thay đổi nhanh chóng vượt lên mọi dự báo dưới tác động của toàn cầu hoá, công nghệ số, biến đổi khí hậu, chiến tranh, dịch bệnh, như thế giới chúng ta đang trải qua thì triết lý này là vô giá, là cái bến bờ vững chắc nơi mỗi con người, mỗi quốc gia neo đậu. Vì vậy, triết lý này cần được phát triển muôn đời. Đây là nền móng cho ý tưởng xây dựng không gian Phật giáo Tây Yên Tử.
Khai thác giá trị di sản văn hóa thành giá trị kinh tế
Nói đến không gian văn hoá Phật giáo là nói đến không gian văn hoá tiêu biểu đặc sắc gắn liền với lịch sử phát triển Phật giáo tại một không gian và thời gian cụ thể. Không gian văn hoá Phật giáo đó phải mang đậm những giá trị tiêu biểu của tư tưởng Phật giáo có tầm ảnh hưởng sâu rộng không chỉ ở phạm vi địa phương mà còn ở phạm vi quốc gia, dân tộc.
Du khách tham quan chùa Vĩnh Nghiêm (Yên Dũng). |
Giá trị không gian văn hoá Bắc Giang chính là giá trị văn hoá của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử được thể hiện trong “Cư trần lạc đạo” của Phật hoàng Trần Nhân Tông. Nói đến không gian Phật giáo Tây Yên tử là nói đến một di sản văn hoá. Mọi di sản văn hoá đều có hai bình diện: Bình diện vật chất (hay văn hoá vật thể) và bình diện phi vật thể. Bình diện vật chất bao gồm: Chùa, tượng, các vật thể văn hoá, cảnh quan. Bình diện phi vật thể là những lễ hội, giá trị, tín ngưỡng, đức tin… Hai bình diện đó là hai mặt của “đồng xu di sản văn hoá”, không thể có cái này mà không có cái kia. Di sản văn hoá là một thành tố quan trọng tạo nên bản sắc văn hoá dân tộc, hàm chứa những ý nghĩa và giá trị của một quốc gia trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
Trong bối cảnh phát triển hiện nay, di sản văn hoá được coi vừa là động lực vừa là chất xúc tác cho sự phát triển kinh tế- xã hội. Khác với tài nguyên thiên nhiên, giá trị văn hoá nếu biết khai thác với tinh thần tỉnh thức của đạo Phật thì giá trị đó sẽ là “con ngỗng biết đẻ trứng vàng”, càng khai thác càng phát triển. Triết lý Trung Đạo gắn Đời với Đạo, trong Đạo có Đời, trong Đời có Đạo của “Cư trần lạc đạo” sẽ soi sáng, giúp tìm ra cách biến những giá trị văn hoá phi vật thể trong không gian văn hoá Phật giáo của tỉnh Bắc Giang thành tài nguyên, thành sức mạnh nội sinh và động lực phát triển của địa phương.
Thách thức lớn nhất đối với những người có trách nhiệm quy hoạch, xây dựng và quản lý không gian văn hoá Phật giáo Bắc Giang là tạo ra được sự hài hoà giữa Đạo và Đời, giữa mục tiêu giữ gìn và phát triển giá trị của di sản văn hoá Phật giáo mà cha ông để lại với mục tiêu khai thác giá trị di sản văn hóa thành giá trị kinh tế. Nếu chỉ chú trọng vào khía cạnh kinh tế thì di sản văn hoá giống như một ngôi nhà chứa đầy của cải nhưng vắng chủ nhà còn nếu bỏ qua khía cạnh kinh tế của di sản thì di sản chỉ là một cái nhà trống rỗng.
Một tiết mục trong chương trình “Đêm nhạc Phật” tại chùa Vĩnh Nghiêm (Yên Dũng). Ảnh tư liệu |
Di sản văn hoá cần kinh tế để duy trì và phát triển như dòng sông cần có nước để không bao giờ khô cạn; kinh tế cần các giá trị ẩn chứa trong di sản văn hoá để có thêm sức sống như cây xanh cần nguồn nước, nguồn thức ăn từ đất để vươn cao. Văn hoá và kinh tế là đôi cánh để con chim bay cao, bay xa. Con đường đi đến sự hài hoà đó nằm trong triết lý của Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử thể hiện trong “Cư trần lạc đạo” và trong bài kệ của Huyền Quang Tam tổ:
Vào chưng cõi Thánh thênh thênh,
Thoát rẽ lòng phàm phây phẩy,
Bao nhiêu phong nguyệt, thề thốt chẳng cùng,
Hễ cảnh giang sơn, ai nhìn thấy đấy
Sự hài hoà đó là để du khách đến với không gian Phật giáo Bắc Giang có cảm nhận mỗi bước chân là một bước đi vào cảnh giới giác ngộ, cảnh giới của một tâm thức bừng sáng, xả ly hết mọi vọng niệm.
Về quy hoạch, triết lý trong “Cư trần lạc đạo” gợi lên những điều bổ ích cho dự án xây dựng không gian văn hóa Phật giáo Tây Yên Tử. Đó là cần tránh việc xây dựng những chùa, tượng quá nguy nga, dẫn đến việc lãng phí nguồn lực và huỷ hoại môi trường. Nên chăng khi quy hoạch không gian văn hóa Phật giáo Bắc Giang cần nhấn mạnh đến các đặc trưng kiến trúc không gian, khiêm cung, giản dị, hài hoà, cân đối phù hợp với không gian tâm linh và gắn kết hữu cơ với cảnh quan môi trường trong quy hoạch để tạo ra một không gian sinh thái- tâm linh.
Trong không gian văn hoá Phật giáo Bắc Giang, chùa Vĩnh Nghiêm cần giữ vị trí làm tâm điểm. Từ những bài viết về các vị sư tổ như Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang của Phật giáo Trúc Lâm và các bài về chùa Vĩnh Nghiêm, có thể suy luận rằng, chùa Vĩnh Nghiêm là nơi các Thiền sư, đặc biệt là Pháp Loa, thuyết giảng kinh điển còn Yên Tử là nơi thiền luyện. Điều này được minh chứng qua nhận định của Hoà thượng Thích Thanh Từ rằng “Thiền phái Trúc Lâm vừa tu thiền vừa học kinh điển.”
Do vậy, chùa Vĩnh Nghiêm cần được quy hoạch và xây dựng thành một bảo tàng về các giá trị văn hoá của Phật giáo Trúc Lâm với vai trò là trường đại học Phật giáo đầu tiên ở nước ta. Đây sẽ là nơi du khách cũng như các học giả quan tâm đến Phật giáo Việt Nam nói chung và Thiền Trúc Lâm nói riêng có cơ hội tìm hiểu sâu về quá trình hình thành tư tưởng nhập thế của Thiền Trúc Lâm và những đặc trưng nổi bật của dòng Thiền này trong dòng chảy lịch sử Việt Nam, góp phần làm nên sức mạnh Việt Nam và tâm hồn cốt cách của con người Việt Nam.
Trong không gian của chùa Vĩnh Nghiêm cần có các hoạt động nghệ thuật không chỉ vào dịp lễ hội chùa mà cần được tổ chức thường xuyên phục vụ du khách. Các hoạt động nghệ thuật ở đây phải thấm đẫm triết lý “Cư trần lạc đạo”. Do vậy cần nghiên cứu các loại hình nghệ thuật ở không gian chùa sao cho hoạt động nghệ thuật bảo đảm tính nguyên vẹn “Cư trần lạc đạo” cả trong nội dung lẫn chức năng. Các hình thái nghệ thuật đó cần đa dạng tương thích với đời sống thực tiễn đa dạng, biến các hoạt động nghệ thuật ở đây thành những phương tiện hữu hiện để đem Đạo vào Đời.
Về các hoạt động, ngoài việc được tham gia và tìm hiểu những nghi lễ tôn giáo như lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm, du khách cũng có cơ hội được giới thiệu về các giá trị văn hoá của Thiền phái Trúc Lâm, tham gia các khoá thiền với thời gian linh hoạt từ vài giờ đến vài tuần, vài tháng. Những khoá thiền tập kết hợp với giới thiệu về các giá trị văn hoá của Phật giáo Trúc Lâm dành cho học sinh, sinh viên vào dịp nghỉ lễ hay nghỉ hè là hoạt động rất nên có. Để làm được việc đó cần có những cơ sở thiền tập cũng như nơi ăn nghỉ giản dị, thanh tịnh nhưng vệ sinh và lịch sự cho du khách và các thiền sư hướng dẫn du khách.
Mang lại cho du khách những giá trị tinh thần cao đẹp
Mặc dù du lịch tâm linh ở Việt Nam đang có xu hướng phát triển mạnh trong những năm gần đây song bị các lực lượng của thị trường chi phối. Phần đông du khách trong các chuyến du lịch tâm linh chưa hiểu những vấn đề cơ bản về tâm linh, chưa chuẩn bị đầy đủ tâm thế đến với du lịch tâm linh, còn nhầm lẫn giữa tâm linh, tín ngưỡng và tôn giáo. Do đó, khách tham gia du lịch tâm linh để xin mua rẻ, bán đắt, xin học hành đỗ đạt, cầu may, kiếm nhiều lời, xin thăng quan, tiến chức hoặc sa vào duy tâm thần bí, mê tín, dị đoan… Nhiều nơi các doanh nghiệp coi du lịch tâm linh là ngành kinh tế siêu lợi nhuận nên đua nhau xây các quần thể chùa chiền thật to để thu tiền của du khách từ các dịch vụ nảy sinh.
Khu Du lịch tâm linh-sinh thái Tây Yên Tử (Sơn Động) là điểm đến hấp dẫn nhiều du khách. |
Thực tế cho thấy có những nơi chốn ta đi qua trong một chuyến du lịch tâm linh nhưng không để lại trong ta điều gì vì những gì chúng ta trải qua ở nơi ta đến không làm cho tâm của ta lặng được bởi những lời chào mời của những người bán hàng, bởi thái độ của những người phục vụ và bởi không khí ngột ngạt, ô nhiễm do hương khói và vàng mã.
Nếu tình trạng này còn tiếp diễn, hậu quả sẽ không chỉ là nguy cơ phá vỡ cảnh quan vốn hài hòa của di tích, mà còn góp phần tạo nên tình trạng ngày càng thương mại hóa đời sống tâm linh, xúc phạm niềm tin tín ngưỡng của cộng đồng. Giá trị kinh tế của di sản văn hoá không nằm ở tiền bán vé vào cửa và những đồng tiền lẻ du khách đặt vào hòm công đức mà ở những dịch vụ đi theo như khách sạn, nhà hàng, ẩm thực, đồ lưu niệm thủ công mang đặc thù của địa phương và các dịch vụ giúp du khách trải nghiệm văn hoá gắn với tìm hiểu những giá trị di sản.
Mong rằng không gian văn hoá Phật giáo Bắc Giang sẽ không lặp lại những điều trái với văn hoá, trái với Phật pháp, trái với tư tưởng “Cư trần lạc đạo” của Phật hoàng Trần Nhân Tông và các sư tổ của Thiền phái Trúc Lâm. Tránh được điều đó, du lịch tâm linh sẽ trở về đúng bản chất của nó là đem lại cho du khách những giá trị tinh thần cao đẹp của con người Việt Nam dẫu phải trải qua bao gian lao, thiếu thốn vẫn kiến lập cõi Phật ngay giữa cõi đời.
Triết lý “Cư trần lạc đạo” là triết lý vì cuộc sống của con người, hướng con người đến cuộc sống gắn bó hài hoà với thiên nhiên, tránh tư tưởng tham dục, mưu cầu quá độ đến mức làm mất đi sự cân bằng giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tha nhân và lợi ích của mọi vật trong môi trường. Đó chính là triết lý Trung Đạo, triết lý nhập thế, tùy duyên bất biến của “Cư trần lạc đạo”, không tách Đời khỏi Đạo, Đạo và Đời hoà quyện vào nhau cùng duyên khởi theo tinh thần của pháp môn bất nhị kiến. Tư tưởng đó là một di sản văn hoá vô giá cho sự tồn tại và phát triển tốt đẹp trong thời đại của trí tuệ nhân tạo vì nó giúp con người nhận thức được “cái thật” trong “cái ảo”, biết chọn lấy cái linh hoạt tùy nghi của nhân sinh trong hiện thực cuộc sống.
Thắng cảnh Suối Mỡ (Lục Nam). |
Phát triển du lịch tâm linh theo tinh thần “Cư trần lạc đạo” sẽ bảo đảm cho nguyên tắc không hy sinh di sản vì lợi ích kinh tế, tạo ra sự hài hoà về lợi ích giữa doanh nghiệp và cộng đồng dân cư, phát huy vai trò chủ nhân của cộng đồng địa phương trong phát triển, giữ gìn và hưởng lợi từ di sản văn hoá. Phát triển du lịch văn hoá-tâm linh không đơn giản chỉ là phục hồi lại các lễ nghi Phật giáo ở địa phương và xây dựng lên những khu chùa mới hoành tráng theo kiến trúc hiện đại. Nếu chỉ đầu tư vào những công trình vật chất, chùa tháp nguy nga mà không quan tâm đến nhân tố trí tuệ sáng suốt và hạnh nguyện mẫu mực cũng như mục tiêu nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân địa phương thì dễ đưa con người lạc lối xa thêm.
Có thể thấy, xây dựng không gian văn hóa Phật giáo Tây Yên Tử là một công việc phức tạp, đòi hỏi một phương pháp liên ngành và siêu ngành với sự tham gia của các nhà Phật học, sử học, văn hoá học, kinh tế học, môi trường học, giáo dục học và các chính trị gia. Đó là những giá trị trường tồn vượt qua giới hạn không gian và thời gian, làm nên hồn cốt trong văn hoá Việt Nam. Những giá trị đó có ý nghĩa rất lớn không những đối với các thế hệ người Việt mà còn đối với nhân loại trong thế kỷ 21.
Việc lấy tư tưởng “Cư trần lạc đạo” làm kim chỉ nam cho việc xây dựng không gian văn hoá Phật giáo Bắc Giang với tinh thần vừa bảo tồn được những giá trị của Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử, vừa phát triển kinh tế-xã hội của địa phương. Mọi ý tưởng xây dựng không gian văn hoá Phật giáo Tây Yên Tử phải hướng tới mục đích của Phật Hoàng Trần Nhân Tông đó là làm cho triết lý, tư tưởng của Thiền phái Trúc Lâm thăng hoa, sống mãi trong tâm trí của mỗi người con đất Việt, sống mãi với thời gian, không gian trên đất nước Việt Nam và vượt ra ngoài biên giới quốc gia để có vị trí xứng đáng trong giá trị văn hoá nhân loại.
PGS.Lê Văn Canh – ThS. Đào Thị Ngân
Bảo tồn không gian văn hóa Phật giáo Tây Yên Tử
Thế kỷ XIII – XIV, Phật giáo ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ, đỉnh cao là sự ra đời của Phật giáo Trúc Lâm do Phật hoàng Trần Nhân Tông sáng lập. Dưới thời Trần, không gian Phật giáo Trúc Lâm trải rộng ở cả sườn Đông và Tây dãy núi Yên Tử. Phật giáo Trúc Lâm để lại rất nhiều giá trị, trong đó có giá trị văn hóa.
Không gian văn hóa Phật giáo Trúc Lâm Tây Yên Tử – Những giá trị đặc sắc
BẮC GIANG – Không gian văn hóa Phật giáo Tây Yên Tử với những giá trị đặc sắc, chứa đựng nhiều tiềm năng phát triển du lịch tâm linh nói chung, du lịch cộng đồng nói riêng. Nơi đây là một bộ phận không tách rời Khu du lịch tâm linh Đông Yên Tử – một địa điểm du lịch đã tạo dựng được những giá trị và thương hiệu đối với các du khách.
tây yên tử, bắc giang, văn hóa, du lịch, chùa vĩnh nghiêm, cư trần lạc đạo phú, phật hoàng Trần Nhân Tông