Bệnh bạch hầu đang có nguy cơ bùng phát theo các chuyên gia là do đang có những khoảng trống tiêm chủng.
Tại bản Phà Khảo, xã Phà Đánh, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An vừa ghi nhận 1 ca tử vong do mắc bệnh bạch hầu; đây là ca bệnh đầu tiên tại địa phương này trong nhiều năm trở lại đây.
Bệnh bạch hầu đang có nguy cơ bùng phát theo các chuyên gia là do đang có những khoảng trống tiêm chủng. |
Cùng với đó, tại huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang cũng ghi nhận 1 trường hợp mắc bệnh do có tiếp xúc gần với trường hợp tử vong tại Nghệ An.
Trước tình hình đã có các ca bệnh bạch hầu lây lan trong cộng đồng sau một thời gian không ghi nhận các ổ dịch khiến người dân lo lắng về nguy cơ lây lan của bệnh bạch hầu, một bệnh khó phát hiện, dễ gây tử vong.
Trước đó, cuối năm 2023, tại các tỉnh Hà Giang, Điện Biên, Thái Nguyên cũng đã ghi nhận các ổ dịch bạch hầu tái xuất hiện với hàng chục ca mắc.
Lý giải về việc gần đây Việt Nam lẻ tẻ ghi nhận các ổ dịch bạch hầu sau thời gian dài ít xuất hiện, các chuyên gia cho rằng, bệnh bạch hầu vẫn có mầm bệnh trong cộng đồng, nhưng do những năm trước kia, tỷ lệ tiêm chủng phòng bệnh cao, kể cả khu vực miền núi.
Tuy nhiên, mấy năm gần đây, nhất là giai đoạn dịch Covid-19, giai đoạn thiếu hụt vắc-xin phòng bệnh khiến tỷ lệ giảm xuống, người dân cũng không đi tiêm chủng được trong giai đoạn dịch bệnh.
Đặc biệt, gần đây, nhiều gia đình cũng lơ là việc tiêm chủng cho trẻ, thậm chí có những xu hướng không tiêm chủng cho trẻ; vì vậy mầm bệnh lây ra sẽ dễ bùng phát. Vì vậy đã có những ổ dịch xảy ra như vừa qua, rải rác tại các địa phương.
Về việc các ổ dịch bạch hầu gần đây thường xuất hiện ở khu vực miền núi các cho rằng, khu vực miền núi thường có tỷ lệ tiêm vắc-xin thấp, nhất là những khu vực vùng sâu, vùng xa, đi lại khó khăn.
Thậm chí dây chuyền lạnh bảo quản vắc-xin đưa đến tận nơi cũng khó khăn; trong khi đó, người dân đi làm trong rẫy, trong núi cũng khó tiếp cận với y tế, không bao phủ được tiêm chủng ở các khu vực này nên bệnh dễ bùng phát.
Với bệnh bạch hầu có thể dự phòng bằng vắc-xin, bảo vệ tránh lây nhiễm bằng việc cách ly cá nhân, tăng cường tiêm chủng vắc-xin.
Trước tình hình các ổ dịch bạch hầu xuất hiện lẻ tẻ như hiện nay, các địa phương cần nâng cao tỷ lệ tiêm chủng, hỗ trợ hệ thống y tế dự phòng ở những nơi đã ghi nhận ca bệnh để lấp khoảng trống tiêm chủng. Vì có thể trước đó tỷ lệ tiêm chủng đã cao nhưng một thời gian dài sau hàng rào miễn dịch có thể giảm hiệu lực bảo vệ.
Chủ yếu vẫn là trẻ em được tiêm chủng được tốt, đảm bảo miễn dịch thì dịch sẽ khó bùng phát lại. Về việc người dân có nên đi tiêm vắc-xin phòng bệnh khi xuất hiện các ổ dịch bạch hầu hay không theo chuyên gia, ở những nơi xuất hiện dịch thì có thể tiêm phòng cho trẻ; hoặc trong gia đình những người có ca mắc bệnh.
Với trẻ em, cần được tiêm chủng đầy đủ vắc – xin (Bạch hầu – Ho gà – Uốn ván, DPT) theo chương trình tiêm chủng. Người lớn nên tiêm nhắc lại vắc-xin bạch hầu mỗi 10 năm để củng cố khả năng miễn dịch của cơ thể.
Tại Việt Nam, nhờ có chiến lược tiêm chủng vắc-xin Bạch hầu – Ho gà – Uốn ván (DPT) trong chương trình Tiêm chủng mở rộng từ năm 1981 mà tỷ lệ nhiễm bạch hầu giảm mạnh vào những năm 2010.
Vắc-xin phòng bạch hầu được khuyến cáo tiêm ngừa cho tất cả trẻ nhỏ, 3 liều lúc trẻ được 2, 3, 4 tháng tuổi và nhắc lại lần 1 vào lúc 18 tháng tuổi. Trẻ từ 4-6 tuổi có thể nhắc lại vắc-xin 4 trong 1 phòng bạch hầu, ho gà, uốn ván, bại liệt.
Đối với trẻ nhỏ, người lớn, phụ nữ trước khi mang thai hoặc đang mang thai ở tuần thứ 27 đến dưới đến dưới 35 tuần thai có thể nhắc lại vắc-xin phòng bạch hầu, ho gà, uốn ván, sau đó có thể nhắc mỗi 10 năm/lần để duy trì kháng thể bảo vệ cơ thể chống lại vi khuẩn bạch hầu lâu dài.
Trẻ em cũng như người lớn được tiêm vắc-xin đầy đủ theo đúng liệu trình tiêm chủng khuyến cáo có thể bảo vệ cơ thể khỏi bệnh bạch hầu.
Nghĩa là người đã tiêm vắc-xin bạch hầu sẽ không có nguy cơ mắc bệnh này. Người lớn chỉ cần tiêm một mũi, nếu có điều kiện thì tiêm nhắc lại, để tăng miễn dịch kháng thể.
Bệnh bạch hầu thuộc nhóm B (là các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm có khả năng lây truyền nhanh và tử vong) trong Luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm.
Bệnh bạch hầu là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, có tính chất gây dịch, chủ yếu lây truyền theo đường hô hấp, do trực khuẩn bạch hầu (Corynebacterium diphtheriae) gây nên.
Bệnh chủ yếu lây qua đường hô hấp khi tiếp xúc với giọt bắn của người nhiễm bệnh lúc ho, hắt hơi. Ngoài ra, bệnh có thể lây qua con đường gián tiếp khi tiếp xúc với đồ vật bị nhiễm dịch mũi hầu từ người bệnh. Bệnh cũng có thể lây nhiễm khi tiếp xúc với vùng da tổn thương do bạch hầu.
Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi nhưng 70% là ở trẻ dưới 15 tuổi và chưa tiêm vắc-xin. Ngay cả khi được điều trị, tỷ lệ tử vong của bệnh cũng lên tới 5-10%.
Bệnh bạch hầu có thể gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm, gọi là bạch hầu ác tính, nếu không được điều trị kịp thời. Các biến chứng thường gặp nhất là biến chứng tim (thường là viêm cơ tim và rối loạn dẫn truyền trong tim) và thần kinh, gây liệt. Ngoài ra có thể gặp biến chứng trên thận, gan, tuyến thượng thận…
Thể bệnh hay gặp nhất của bệnh bạch hầu là ở đường hô hấp (mũi, họng, thanh quản, khí phế quản), trong đó 70% là bạch hầu họng. Ngoài ra, các vị trí khác có thể nhiễm bệnh như bạch hầu da, bạch hầu mắt.
Với thể bạch hầu họng, sau thời gian ủ bệnh từ 2-5 ngày, bệnh nhân bắt đầu có các triệu chứng như sốt nhẹ 37,5-38 độ C, đau họng, khó chịu, sổ mũi có thể lẫn máu. Khám họng có thể thấy họng hơi đỏ, amydan có điểm trắng mờ; sờ thấy hạch cổ nhỏ, di động, không đau.
Sau khoảng 3 ngày, bệnh bước vào giai đoạn toàn phát với các triệu chứng điển hình nhất: Sốt tăng 38-38,5 độ C, nuốt đau, da xanh tái, mệt nhiều, sổ mũi nhiều, nước mũi trắng hoặc lẫn mủ; khám họng thấy giả mạc lan tràn ở một bên hoặc 2 bên amydan, có thể lan trùm cả lưỡi gà và màn hầu; hạch vùng cổ sưng đau, phù nề, khi có dấu hiệu cổ bạnh (bull neck) là dấu hiệu nặng.
Giả mạc lan rộng có thể gây thở rít, tắc nghẽn đường thở và suy hô hấp, thậm chí tử vong nếu không được xử trí kịp thời. Nếu được chẩn đoán và điều trị sớm, giả mạc hết nhanh (1-3 ngày), bệnh nhân hết sốt và hồi phục dần sau 2-3 tuần.
Bệnh bạch hầu có thể gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm, gọi là bạch hầu ác tính, nếu không được điều trị kịp thời. Các biến chứng thường gặp nhất là biến chứng tim (thường là viêm cơ tim và rối loạn dẫn truyền trong tim) và thần kinh (gây liệt). Ngoài ra có thể gặp biến chứng trên thận, gan, tuyến thượng thận.
Bệnh bạch hầu cần được phát hiện và điều trị sớm để tránh gây biến chứng và dẫn đến tử vong. Liệu pháp điều trị chính của bệnh bạch hầu là huyết thanh kháng độc tố bạch hầu (SAD), cần được sử dụng càng sớm càng tốt để trung hòa độc tố bạch hầu còn lưu hành trong máu (hiệu quả nhất là trong vòng 48 giờ đầu).
Bên cạnh đó, kháng sinh (thường là Penicillin và Erythromycin) cũng được sử dụng để ngăn chặn sự phát triển và sinh độc tố của vi khuẩn và làm giảm sự lây nhiễm bệnh.
Các biện pháp điều trị phối hợp khác cũng được sử dụng như corticosteroid, quản lý đường thở, quản lý tim mạch và chế độ dinh dưỡng.
Tất cả người bệnh nghi bạch hầu phải được vào viện để cách ly, theo dõi, chẩn đoán và điều trị. Nhà ở của người bệnh, dụng cụ trong phòng, đồ dùng, quần áo của người bệnh phải được tẩy uế và sát khuẩn. Thực hiện rửa tay đúng quy cách bằng xà phòng hoặc dung dịch sát khuẩn.
Để phòng bệnh, ngoài việc tiêm vắc-xin người dân cần phải đảm bảo an toàn vệ sinh trong chăn nuôi, trong giết mổ để không lây sang người; ăn chín uống chín, sử dụng gia cầm có nguồn gốc, không ăn gia cầm ốm, chết và phải rửa tay bằng xà phòng sau khi giết mổ, làm thịt gia cầm…
Ở những nơi có ca bệnh, theo bác sĩ tất cả người bệnh nghi bạch hầu cần phải được vào viện để cách ly, theo dõi, chẩn đoán và điều trị.
Nhà ở của người bệnh, dụng cụ trong phòng, đồ dùng, quần áo của người bệnh phải được tẩy uế và sát khuẩn. Thực hiện rửa tay đúng quy cách bằng xà phòng hoặc dung dịch sát khuẩn. Với người tiếp xúc với bệnh nhân bạch hầu cần được sử dụng kháng sinh dự phòng.