Tôi đọc thông tin trong bài viết ” Đi cấp cứu vì thói quen nhiều người Việt làm khi đau đầu âm ỉ “, nhận thấy nhiều người chủ quan khi bị đau đầu, thường cố chịu đựng đến khi qua cơn, hoặc mua thuốc giảm đau về uống mà không nghĩ đến hậu quả nghiêm trọng. Vậy nguyên nhân nào có thể gây đau đầu, các dấu hiệu cảnh báo nguy hiểm là gì, thưa bác sĩ? (Quỳnh Trang, Hà Nội).
Thạc sĩ, bác sĩ Chử Văn Dũng, Khoa Nội, Hồi sức thần kinh, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, tư vấn:
Đau đầu là triệu chứng rất thường gặp, do nhiều nguyên nhân. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, khoảng 50% người lớn có ít nhất một lần bị đau đầu trong năm.
Đau đầu là hiện tượng đau lan tỏa một vùng bất kỳ ở khu vực đầu – mặt do kích thích các thụ cảm thần kinh đau. Phần lớn cấu trúc nhu mô não và khu vực não thất không nhạy cảm với đau. Các cấu trúc nhận cảm đau vùng đầu mặt bao gồm: da, tổ chức dưới da; cơ vùng đầu – cổ; động mạch ngoài sọ và màng xương sọ; cấu trúc vi thể mắt, tai, khoang mũi, hàm mặt; các xoang tĩnh mạch màng cứng và các nhánh, khu vực xoang hang; màng cứng nội sọ; các động mạch lớn.
Phần lớn các trường hợp đau đầu thường nhẹ, không nguy hiểm. Tuy nhiên, một số trường hợp đau đầu là triệu chứng của bệnh lý, thậm chí có thể nguy hiểm đến tính mạng, trong đó:
– Bệnh lý nội sọ: bệnh lý mạch máu não (thiếu máu cục bộ, đột quỵ xuất huyết, viêm mạch, dị dạng mạch, huyết khối xoang tĩnh mạch,…); viêm do nhiễm trùng (viêm màng não, viêm não, áp xe não,..) hoặc không do nhiễm trùng (tự miễn, ung thư, hóa học); chấn thương sọ não; u não và các khối choán chỗ; hội chứng tăng áp lực nội sọ; dị dạng Chiari loại I;…
– Bệnh lý ngoài sọ: bệnh lý về mắt, tai mũi họng, nha khoa, bệnh động mạch cảnh hoặc đốt sống đoạn ngoài sọ (bóc tách động mạch).
– Bệnh lý toàn thân: cơn tăng huyết áp, sốt cao, thiếu oxy máu, tăng C02 máu, nhiễm khuẩn huyết, nhiễm virus,…
Các nghiên cứu cho thấy hơn 95% trường hợp đau đầu là lành tính. Các trường hợp đau đầu do các bệnh lý nguy chiếm tỷ lệ thấp, tuy nhiên ít người có thể phân biệt được trường hợp nào là nghiêm trọng. Có một số yếu tố cảnh báo nguy hiểm ở những người bị đau đầu, bao gồm:
– Triệu chứng hoặc dấu hiệu thần kinh (ví dụ: ý thức thay đổi, tê yếu tay chân, song thị, phù gai thị, méo miệng, nói khó, không hiểu lời nói,…).
– Tăng huyết áp nặng.
– Người bệnh suy giảm miễn dịch hoặc ung thư.
– Đau đầu kèm cứng cổ.
– Đau đầu như sét đánh (đau đầu dữ dội và đạt đỉnh trong vòng vài giây).
– Người bệnh có thể có tình trạng co giật, thay đổi tính cách, lú lẫn hoặc ngất xỉu.
– Đau đầu tăng khi ho hoặc khi vận động.
– Các triệu chứng toàn thân (ví dụ: sốt, sụt cân,…).
– Đau đầu ngày càng trầm trọng hoặc cơn đau đầu tính chất khác hẳn trước đây.
– Khởi phát đau đầu sau 50 tuổi.
Nếu đau đầu có kèm theo bất kỳ một trong các dấu hiệu cảnh báo trên, người bệnh cần ngay lập tức đến cơ sở y tế để được đánh giá đầy đủ.
Hầu hết trường hợp đau đầu lành tính có thể được chẩn đoán thông qua hỏi bệnh và khám bệnh mà không cần xét nghiệm. Tuy nhiên, một số bệnh lý nghiêm trọng có thể cần phải xét nghiệm khẩn cấp hoặc ngay lập tức (khi có các dấu hiệu cảnh báo).
Cộng hưởng từ sọ não (MRI) cho đánh giá hiệu quả nhất hình ảnh về não bộ, cắt lớp vi tính sọ não cũng có thể sử dụng. Có thể dựng phim mạch máu não (MRA hoặc CTA) để đánh giá về tình trạng mạch khi nghi ngờ.
Ngoài ra, nếu đang nghi ngờ viêm màng não, xuất huyết dưới nhện, viêm não hoặc bất kỳ nguyên nhân nào của viêm màng não nên chọc dịch não tủy và xét nghiệm dịch não tủy.
Các xét nghiệm, thăm dò khác (ví dụ: đo nhãn áp, soi đáy mắt, xét nghiệm máu, nội soi tai mũi họng,…) có thể được thực hiện khi có triệu chứng gợi ý tùy tình huống.