Công ty Cổ phần Tập đoàn Lộc Trời thu mua lúa trên cánh đồng liên kết phục vụ xuất khẩu ở huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Ảnh tư liệu: Công Mạo/TTXVN
Thị trường xuất khẩu gạo đang đứng trước những động thái từ các nhà xuất khẩu và nhập khẩu gạo lớn là Ấn Độ và Indonesia.
Ấn Độ đã bãi bỏ thuế xuất khẩu đối với gạo đồ vào cuối ngày 22/10 và loại bỏ giá sàn xuất khẩu 490 USD/tấn đối với gạo trắng phi basmati vào ngày 23/10 để thúc đẩy xuất khẩu.
Gạo đồ 5% tấm của Ấn Độ được báo giá ở mức từ 450 – 484 USD/tấn trong tuần này, mức thấp nhất kể từ tháng 8/2023. Gạo trắng 5% tấm của Ấn Độ được báo giá ở mức từ 460 – 490 USD/tấn.
Một nhà xuất khẩu có trụ sở tại Kolkata cho biết giá các loại gạo ở Ấn Độ giảm mạnh sau khi chính phủ dỡ bỏ thuế xuất khẩu và giá xuất khẩu tối thiểu.
Trong khi đó, nhà nhập khẩu gạo lớn là Indonesia, sau khi Cơ quan hậu cần quốc gia Indonesia (Bulog) hủy bỏ cuộc đấu thầu vào ngày 23/10 đã phát hành cuộc đấu thầu mới vào ngày 24/10, khi Ấn Độ vừa dỡ bỏ giá sàn gạo trắng phi basmati.
Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam, đợt đấu thầu quốc tế lần này, Bulog sẽ mua khoảng 500.000 tấn gạo từ Thái Lan, Việt Nam, Campuchia, Myanmar, Pakistan và Ấn Độ. Ngày cuối cùng nộp hồ sơ dự thầu là trước 1h chiều ngày 1/11/2014. Thời gian giao nhận hàng là từ tháng 11 đến 20/12/2024.
Tuần qua, gạo 5% tấm của Thái Lan đã giảm xuống 510 USD/tấn từ mức 525 USD vào tuần trước, sau quyết định của Ấn Độ.
Hiệp hội Lương thực Việt Nam cho biết, gạo 5% tấm của Việt Nam được chào bán ở mức 531 USD/tấn vào ngày 24/10, giảm so với mức 537 USD/tấn một tuần trước.
Tại thị trường trong nước, theo cập nhật của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn An Giang, giá một số loại lúa được thương lái thu mua như: IR 50404 từ 6.700 – 7.000 đồng/kg; lúa OM 5451 có giá từ 7.200 – 7.500 đồng/kg; OM 380 dao động 7.000 – 7.200 đồng/kg…
Với mặt hàng gạo trên thị trường bán lẻ tại An Giang, gạo thường có giá từ 15.000 – 16.000 đồng/kg; gạo thơm thái hạt dài từ 20.000 – 22.000 đồng/kg; gạo Jasmine từ 18.000 – 20.000 đồng/kg; gạo trắng thông dụng 17.000 đồng/kg, gạo Nàng Hoa 20.000 đồng/kg…
Giá gạo nguyên liệu IR 504 Hè Thu ở mức 10.400 – 10.600 đồng/kg. Trong khi đó, gạo thành phẩm IR 504 ở mức 12.550 – 12.700 đồng/kg.
Với mặt hàng phụ phẩm, giá phụ phẩm các loại dao động trong khoảng từ 6.100 – 9.600 đồng/kg. Giá tấm OM 5451 đang ở mức từ 9.500 – 9.600 đồng/kg; giá cám khô từ 6.100 – 6.200 đồng/kg.
Về thị trường nông sản Mỹ, giá đậu tương giảm trong phiên 25/10 tại Sàn giao dịch hàng hóa Chicago, nhưng thị trường vẫn tăng tuần đầu tiên trong một tháng, trong khi giá ngô có tuần tăng mạnh nhất kể từ giữa tháng 9/2024, nhờ nhu cầu đối với ngô xuất khẩu của Mỹ lớn.
Trong khi đó, giá lúa mỳ tăng trong phiên cuối tuần, duy trì đà tăng trong tuần qua sau khi khép lại tuần trước giảm.
Giá đậu tương giảm 0,4%, xuống 9,92 USD/bushel trong phiên cuối tuần và giá ngô giảm 0,2%, xuống 4,20 USD/bushel, trong khi giá lúa mỳ tăng 0,4%, lên 5,83 USD/bushel. Giá đậu tương tăng 0,15% lên 10,125 USD/bushel, trong khi giá ngô tăng 0,62% lên 4,0875 USD/bushel (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).
Giá đậu tương tăng 2,3% trong tuần, tuần tăng duy nhất của thị trường trong một tháng, giá ngô tăng gần 4%, ghi nhận mức tăng hàng tuần mạnh nhất trong 4 tuần, trong khi giá lúa mỳ tăng khoảng 2% sau khi giảm trong tuần trước.
Theo số liệu mới của Bộ Nông nghiệp Mỹ, khối lượng xuất khẩu ròng ngô cả vụ cũ và vụ mới đạt tổng cộng 4.183.777 tấn trong tuần kết thúc vào ngày 17/10, vượt mức dự báo và đánh dấu tuần đạt khối lượng xuất khẩu cao nhất kể từ tháng 5/2021.
Trong khi đó, mức xuất khẩu đậu tương ròng cả vụ cũ và vụ mới đạt mức cao nhất trong 8 tuần, ở mức 2.151.743 tấn.
Tuy nhiên, các nhà phân tích cho rằng giá vẫn được kiểm soát phần nào do nguồn cung toàn cầu dồi dào và sự không chắc chắn về quan hệ thương mại trong tương lai giữa Mỹ với các thị trường chủ chốt sau cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ.
Về thị trường cà phê thế giới, giá cà phê tại hai sàn London và New York ngày 25/10 tăng mạnh trở lại, sau phiên giảm sâu trước đó.
Giá cà phê Robusta trên sàn London giao tháng 11/2024 tăng 62 USD (1,42%), lên 4.430 USD/tấn và giao tháng 1/2025 tăng tới 74 USD (1,71%), lên 4.411 USD/tấn.
Còn trên sàn New York, giá cà phê Arabica giao tháng 12/2024 tăng mạnh 2,95 xu Mỹ (1,2%), lên 248,4 xu Mỹ/lb và giao tháng 3/2025 tăng tới 3,05 xu Mỹ (1,25%), lên 247,5 xu Mỹ/lb.
Trong năm 2024, giá cà phê liên tục tăng cao gây khó khăn và rủi ro nhiều cho việc thu mua thực hiện các hợp đồng xuất khẩu. Lần đầu tiên, giá cà phê Robusta trên sàn London vượt 5.000 USD/tấn, cao hơn cả cà phê Arabica.
Ở trong nước, giá cà phê ngày 26/10 tăng 400 đồng, lên 108.400 – 109.300 đồng/kg.
Cụ thể, tại Lâm Đồng, giá cà phê tại ba huyện Di Linh, Bảo Lộc và Lâm Hà đang cùng ở mức 108.900 đồng/kg.
Tại Đắk Lắk, giá thu mua cà phê tại huyện Cư M’gar ở mức 109.100 đồng/kg, còn huyện tại Ea H’leo và Buôn Hồ là 109.000 đồng/kg.
Nguồn: https://baoangiang.com.vn/kinh-te/tieu-dung-thi-truong/thi-truong-nong-san-hai-nha-xuat-khau-va-nhap-khau-lon-co-dong-thai-manh-a408257.html