Khởi từ một độc giả Báo Lao Động, những năm 1992 khi Lao Động tuần có 3 số rồi đến lúc tình cờ được là bạn với các “danh thủ” của Lao Động như: Phan Đan, Hoàng Hưng, Thụy Kha, Trung Dân, Đỗ Quang Hạnh, Vĩnh Quyền, Chu Thảo, Trịnh Tú và trở thành cộng tác viên của Lao Động từ lúc nào chẳng nhớ nữa.
Tôi là họa sĩ nên có niềm vui đi xem tranh của đồng nghiệp, nhất là các họa sĩ trẻ. Tôi lại thích viết bình luận, cảm nghĩ của mình về các tác phẩm, về các triển lãm của họ, tự nguyện một phần mà đôi khi cũng là lời nhờ, tin tưởng của các họa sĩ mới triển lãm lần đầu.
Viết xong mà lại in được bài giới thiệu ấy trên một tờ báo lớn như Lao Động, đối với nghệ sĩ trẻ có thể coi như một ấn chứng bước đầu. Các nghệ sĩ lớn, các “ông kễnh” thì họ đâu cần mình viết. Vả lại viết về họ khá khó vì các danh bút đã khai thác hết rồi. Viết về các người trẻ ít khó hơn vì nhiều chuyện để bàn nhưng chỉ duy có điều phải tinh mắt, công tâm mà nhìn ra, nhìn thấy và nhìn thấy trước được cái hay dù là mầm mới nhú ở họ. Chưa riêng đâu nhưng đã là tín
hiệu ở cách dùng bút, cách tạo hình, ở bảng màu…
Viết cho người trẻ cần “mắt xanh” là thế! Nói chuyện viết thì phải nói cho hết rằng viết về gì, viết về ai thì cũng là viết về mình, qua họ để mình nói được chuyện nghề, quan niệm nghề của mình, cao hơn là chuyện lòng của mình. Phê bình là khoa học nhưng vẫn cần phải có văn nữa chứ? Qua họ để thấy mình, qua phân tích một tác phẩm, một triển lãm của cá nhân họa sĩ ấy để thấy được những điều chung của nghệ thuật, của hội họa.
Ấy thế mà, thật nan giải khi gửi bài cho các báo. Báo ngày thì chỉ thích tin, không thích bài, “đất chật, người đông” nhất là báo tuần khổ nhỏ. Thôi thì chỉ còn nước cậy nhờ Lao Động Cuối tuần, luôn mở lòng với những bài viết của tôi giới thiệu về các họa sĩ chưa tên tuổi, chưa thành danh. Tôi nhấn mạnh và xin được nhắc lại: Lao Động Cuối tuần luôn ủng hộ các nghệ sĩ trẻ. Họ và tôi luôn nhớ đến nghĩa cử này.
Có lẽ nhân đây tôi nẩy ra một ý, tôi sẽ chọn lọc để in một cuốn sách tạm gọi là “Trò chuyện với hội họa”, trong đó có nhiều bài đã in trên Lao Động Cuối tuần.
Tôi là họa sĩ, tôi có niềm vui đọc sách, chủ yếu là sách văn chương, thi ca, nghệ thuật.
Lao động Cuối tuần thường có trang truyện ngắn, thơ, tản văn. Minh họa dù là màu hay đen trắng cho thơ văn in báo dù nhỏ thôi, lại thường cần nhanh, chưa phải đã là tác phẩm nhưng chẳng dễ.
Các anh chị ở Lao động Cuối tuần thường đặt tôi vẽ minh họa. Họa sĩ vẽ tranh thì đã đành, nhưng minh họa cũng là một cái thú, nó có niềm vui khác. Minh họa cho báo có đặc thù riêng, trước tiên là thời gian không nhiều, thường là chỉ 1 đến 2 hôm. Vẽ tranh thì tha hồ bay bổng nhưng minh họa cho truyện, thơ thì vẫn phải dựa trên nội dung của truyện ấy, bài thơ ấy.
Vẽ một bức tranh phong cảnh thì cảm hứng là từ phong cảnh cánh đồng, dòng sông trước mắt mình, còn minh họa thơ văn thì cảm hứng xuất phát từ vẻ đẹp của câu văn, câu thơ mà mình đọc. Người vẽ đọc rồi vẽ, người đọc thì có thể xem minh họa rồi mới đọc hoặc đọc rồi xem, xem lại minh họa.
Bức minh họa người đàn bà ngồi tư lự bên bậu cửa rất có thể là nhân vật chính của câu chuyện, phong cảnh phố huyện một chiều mùa đông trong minh họa có thể là nơi diễn ra cái kết của câu chuyện, bối cảnh chính của câu chuyện. Ví dụ vậy! Nhưng cũng có khi phá quy tắc vừa nêu.
Một câu thơ hay, một câu thơ lạ, bất ngờ sẽ làm dậy lên cảm hứng nơi người vẽ, chữ nghĩa kéo hình màu về. Không định được trước.
Minh họa? Nên gọi là những bức tranh vẽ trên cảm hứng từ thi ca, văn chương hoặc là cuộc đối thoại giữa hội họa và thơ văn thì đúng hơn chăng?
Không thể minh họa được. Mỗi một loại hình nghệ thuật đều có ngôn ngữ riêng của nó. Cho dù với thi ca, hội họa là người hàng xóm nhưng nó vẫn sống độc lập. Nếu giả sử hội họa sống tầm gửi vào văn thơ thì nó sẽ chết.
Bức tranh vẽ trên cảm hứng từ một bài, một câu thơ nên được coi là văn bản hai của bài thơ đó hoặc một cách hiểu, cách cảm khác về bài thơ đó. Qua bức tranh bài thơ sẽ dài rộng ra, bài thơ ấy sẽ sống thêm một đời sống khác, một đời sống bằng hình màu mà chỉ hội họa mới tạo ra được.
Nhưng quan niệm minh họa này của tôi không theo lối truyền thống nên rất khó được các tờ báo hoặc các tác giả khác chấp nhận, họ vẫn thích minh họa là minh họa nghĩa đen, kiểu chuyện thế nào thì vẽ vậy. Thật may, lúc đó anh Đỗ Quang Hạnh phụ trách Lao Động Cuối tuần là người có quan niệm thẩm mỹ cởi mở, anh để tôi tự do minh họa theo cách của mình.
Ví dụ chùm minh họa về trang thơ của Nguyễn Thụy Kha có bài “Trăng trong mây” với câu: “Trăng trong mây quả tim anh trong em/ Quả tim si tình khi tròn khi khuyết”. Tôi vẽ chân dung một cô gái, mái tóc che kín vầng trán như một đám mây và lấp ló trong đám mây/ tóc đó là vầng trăng khuyết/ trái tim.
Hoặc trang thơ Hải Phòng in bài “Cá mòi” của Đào Trọng Khánh, cảm hứng để vẽ bật lên từ câu: “Nào hãy bơi đi đàn cá mòi khô”, tôi để một dòng sông đồng hiện trên khuôn mặt có lẽ là của thi sĩ. “Xưa tôi trôi như một cánh buồm/ Giờ tôi đã là bến cũ” và đàn cá mòi khô ấy vẫn bơi trên dòng sông/ mặt/ Đào Trọng Khánh.
Hội họa hiện thực có ưu thế của nó nhưng vẽ thực chỉ hợp với minh họa nghĩa đen, thơ văn sao vẽ vậy. Với điểm nhìn hiện đại thì hội họa và thi ca mới song hành được.
Nếu vẽ thực thì khó mà “trò chuyện” được với “đàn cá mòi khô”, hoặc “biển rộng 2 vai” với Trịnh Công Sơn, hoặc trò chuyện với “ra đến cửa là ngã vào trái tim bè bạn” của Thanh Tùng, hoặc nữa “trong đôi guốc tôi chú ý nhất cái chật chật của đôi quai” của Đặng Đình Hưng.
Nhờ có sự cởi mở của Báo Lao Động mà tôi đã có những trang viết giới thiệu về các họa sĩ trẻ. Nhờ có sự cởi mở của Báo Lao Động mà tôi có được những minh họa theo quan niệm của riêng mình.
Tôi xin dùng câu hỏi: Giả sử như nếu không có Lao Động thì…? để làm lời cảm ơn với các ấn phẩm của Báo Lao Động.
7.2024
Nguồn: https://laodong.vn/van-hoa/ve-cho-lao-dong-1380340.ldo