Nông lâm thủy sản Việt chiếm chưa tới 5% thị phần nhập khẩu của thị trường Trung Quốc Thủy sản Việt Nam đang giữ vị trí số 1 trên thị trường Australia |
Vẫn chuyện nông sản “được mùa rớt giá”
Chia sẻ tại Hội nghị “ Nâng tầm nông – thủy sản Việt” do Báo Người lao động phối hợp cùng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức chiều 27/4, bà Nguyễn Kim Nhiên – Giám đốc Công ty TNHH CBNS Kim Nhiên (TP. Cần Thơ) cho biết: Doanh nghiệp sản xuất mặt hàng chủ lực là trà mãng cầu, bao tiêu khoảng 200 ha ở xã Thới Hưng, huyện Cờ Đỏ, TP. Cần Thơ. Thuận lợi là giải quyết đầu ra giá trị cho trái cây, nâng giá trị trái cây thành các dòng trà để xuất khẩu sang Mỹ, Hàn Quốc, Lào và tiêu thụ nội địa. Tuy vậy, công ty đang gặp nhiều khó khăn vì đầu ra chưa phổ biến.
Nêu thực tế hiện nay của ngành hàng nông sản trong vùng, ông Nguyễn Văn Hồng – Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân TP. Cần Thơ cho biết, hiện nay sản quy mô sản xuất nông nghiệp tại Đồng bằng sông Cửu Long vẫn nhỏ lẻ, chất lượng sản phẩm không đồng đều.
Người nông dân sản xuất tự phát không dựa vào nhu cầu của thị trường, đa phần nông dân chạy theo cái lợi trước mắt chưa nghĩ đến lâu dài, sản xuất xong rồi mới tìm đầu ra cho sản phẩm, vì thế câu chuyện “mất mùa được giá, được mùa mất giá” khó có thể giải quyết dứt điểm.
Các địa phương cần xác định mặt hàng nổi bật nhất để thúc đẩy tiếp thị ở cả thị trường trong nước và nước ngoài |
Theo Giáo sư Võ Tòng Xuân, 70% nông dân vẫn thích làm ăn riêng lẻ, đất đai manh mún và làm theo ý mình. Do đó, việc xây dựng và hình thành những vùng sản xuất lớn, có sản phẩm/nguyên liệu đồng nhất để cung cấp cho các doanh nghiệp chế biến dù có nhưng còn rất ít. Ví dụ trong ngành đường, gắn kết giữa nông dân trồng mía và nhà máy sản xuất đường rất chặt chẽ nhưng những ngành khác khó kiếm được liên kết như vậy.
Đối với ngành thủy sản, ông Trương Đình Hòe – Tổng Thư ký Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết, khu vực Đồng bằng sông Cửu Long có vai trò đặc biệt quan trọng khi tập trung nhiều vùng nguyên liệu và nhà máy chế biến thủy sản. Với cá tra, khu vực này đóng góp đến 90% kim ngạch xuất khẩu, tập trung tại các địa phương: Đồng Tháp, TP. Cần Thơ, An Giang, Long An, Bến Tre… Còn ngành tôm tập trung ở các tỉnh Bạc Liêu, Sóc Trăng, Cà Mau…. Tuy nhiên, hiện nay có thể nói hệ thống cơ sở hạ tầng, hệ thống logistics, hệ thống sản xuất, dịch vụ phụ trợ của Đồng bằng sông Cửu Long phát triển chưa tương xứng.
“Đồng bằng sông Cửu Long vẫn chưa có nhiều vùng nuôi tôm tập trung, quy mô trang trại, chưa có cảng biển đón tàu container cũng như hệ thống cung ứng và phân phối vật tư, nguyên liệu phải qua nhiều khâu trung gian khiến cho giá thành sản xuất còn cao và khó cạnh tranh. Đây là những trở ngại cơ bản để xuất khẩu thủy sản có thể bắt kịp với xu hướng hiện nay khi mà thị trường thế giới ngày càng quan tâm nhiều đến an toàn vệ sinh thực phẩm, truy xuất nguồn gốc cũng như phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn”- ông Hòe cho biết thêm.
Đơn cử, các đối thủ của ngành tôm Việt Nam trên thế giới như: Ecuador, Ấn Độ nhờ có vùng nuôi tập trung nên đã kiểm soát tốt dịch bệnh, truy xuất được nguồn gốc, ứng dụng khoa học kỹ thuật và quản lý tốt chi phí nên đã cạnh tranh mạnh với tôm Việt Nam trong vài năm gần đây, dù trình độ chế biến tôm của Việt Nam cao hơn hẳn.
Cần phải nâng tầm nông, thủy sản
Theo GS. Võ Tòng Xuân, để nâng tầm uy tín của nông sản, thuỷ sản Việt Nam, các địa phương phải tính toán xem đâu là hàng hóa nổi bật nhất. Địa phương nào cũng có sản phẩm OCOP, có nơi có cả trăm sản phẩm nhưng các sản phẩm OCOP giữa các tỉnh thành đa số na ná nhau. Do đó, cần tính toán sản phẩm OCOP nào thật sự đại diện cho địa phương, cần phải tiếp thị mạnh không chỉ trong nước mà ở thị trường nước ngoài.
Ở cấp quốc gia thì xác định loại giống nào, mô hình sản xuất nào. Ví dụ vải thiều hiện mạnh tỉnh nào lo đầu ra tỉnh đó, cạnh tranh nhau chứ không làm thương hiệu chung cho vải thiều Việt Nam để ai tới cũng phải mua. Hay như miền Bắc có khoai tây Thường Tín đặc biệt ngon nhưng chưa được đẩy mạnh thành sản phẩm quốc gia. Vậy nên, cần xác định giống gì, con gì để đẩy mạnh.
Vấn đề thứ 2 là liên kết sản xuất. Khi xây dựng được vùng nguyên liệu lớn, đồng nhất, chất lượng cao, sạch, ngon thì không còn khó khăn. Ngoài ra, các doanh nghiệp trong chuỗi sản xuất thương hiệu đó phải cùng nhau chăm sóc, giữ vững thương hiệu, lúc nào sản phẩm cũng ngon như nhau.
PGS.TS Nguyễn Minh Đức, Hiệu trưởng Trường Đại học Văn Hiến thì cho rằng, doanh nghiệp phải làm sao có nguyên liệu rẻ nhất để sản xuất sản phẩm chất lượng cao bán ra toàn cầu. Thứ 2 cần tiêu chuẩn hoá theo nước ngoài. Chúng ta có rất nhiều tiêu chuẩn (khoảng 23 tiêu chuẩn), mỗi địa phương còn có tiêu chuẩn con dẫn đến nông dân không thể đáp ứng tất cả tiêu chuẩn đó. Vì vậy, cần có doanh nghiệp dẫn đầu, tổ hợp tác hướng dẫn nông dân sản xuất theo tiêu chuẩn và tổ chức thu mua, sản xuất, chế biến, thương mại hoá theo hướng nâng cao giá trị các sản phẩm nông nghiệp.
Để hướng tới nâng tầm nông thủy sản, Đồng bằng sông Cửu Long phải tổ chức triển khai đồng bộ, hiệu quả Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; Nghị quyết số 120/NQ-CP về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu.