Thảo luận tại hội trường chiều nay, đại biểu Nguyễn Lâm Thành (Thái Nguyên) cơ bản nhất trí với báo cáo của Đoàn giám sát và các ý kiến đại biểu về kết quả giám sát chuyên đề “việc thực hiện Nghị quyết số 43/2022/QH15 ngày 11/01/2022 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi, phát triển kinh tế – xã hội và các nghị quyết của Quốc hội về một số dự án quan trọng quốc gia đến hết năm 2023”. Đại biểu cho rằng đây là Nghị quyết rất đúng đắn của Quốc hội đặt ra trong yêu cầu nhằm phục hồi, phát triển kinh tế – xã hội sau đại dịch Covid-19 với rất nhiều nội dung đi đúng trọng tâm, trọng điểm để giải quyết những vấn đề mà xã hội và nền kinh tế đang cần.
Đại biểu Nguyễn Lâm Thành (Thái Nguyên) |
Đại biểu Nguyễn Lâm Thành cũng đồng tình với các đại biểu cho rằng cần có những quy định về cơ chế đặc thù, chính sách đặc thù để giải quyết những vấn đề đặc thù trong tình huống đặc biệt.
Về các dự án đường cao tốc, đại biểu Nguyễn Lâm Thành đề nghị cần phải có các nghiên cứu, báo cáo bổ sung như kiến nghị của Đoàn giám sát. Đồng thời cần làm rõ những nguyên nhân, chỉ rõ trách nhiệm của các cơ quan trong quá trình triển khai một số dự án quan trọng quốc gia.
Đại biểu Nguyễn Văn Thân (Thái Bình) cũng bày tỏ nhất trí với đánh giá của Đoàn giám sát chuyên đề và nhấn mạnh: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã thực hiện giảm lãi suất tới 4 lần, giãn nợ, tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp. Đây là sự cố gắng của ngành ngân hàng cần được ghi nhận.
Về việc thực hiện chính sách hỗ trợ lãi suất 2% thông qua hệ thống các ngân hàng thương mại, đại biểu Vũ Tuấn Anh (Phú Thọ) cho biết, đây là giải pháp rất quan trọng để giảm giá thành, hỗ trợ trực tiếp cho sản xuất kinh doanh, đóng góp quan trọng vào phục hồi phát triển kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, kết quả thực hiện từ đầu chương trình đến hết năm 2023 mới đạt được khoảng 3,05% quy mô chính sách. Có thể thấy chính sách này hầu như không đi vào cuộc sống, ảnh hưởng đến thực hiện mục tiêu của Chương trình phục hồi phát triển kinh tế – xã hội đã đề ra.
Đại biểu Vũ Tuấn Anh (Phú Thọ) |
Bên cạnh các nguyên nhân dẫn đến chính sách này không đi vào cuộc sống như Đoàn giám sát đã nêu, thực tiễn cho thấy, nguyên tắc thực hiện chính sách theo Nghị định 31 của Chính phủ chưa phù hợp, chưa rõ ràng. Hướng dẫn của các cơ quan chức năng cũng chưa đầy đủ, rõ ràng, nên nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh khó khăn, cần được hỗ trợ nhưng điều kiện được hỗ trợ lãi suất 2% rất chặt chẽ. Bên cạnh đó, không ít doanh nghiệp có tâm lý e ngại thanh tra, kiểm tra, kiểm toán như Đoàn giám sát đã nêu, nên khi được hỗ trợ từ ngân sách nhà nước, mặc dù đủ điều kiện cũng không đề nghị được hỗ trợ lãi suất. Do đó đại biểu đề nghị Chính phủ cần đánh giá kỹ hơn về nguyên nhân để rút ra bài học kinh nghiệm khi đưa ra chính sách tương tự trong giai đoạn tiếp theo.
Đối với chính sách đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, thực hiện nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ đã 5 lần trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội giao danh mục mức vốn, với mức tối đa theo nghị quyết của Quốc hội. Tuy nhiên, việc giao vốn của chương trình còn chậm, kết quả giải ngân vốn các dự án mới đạt 61% (đến hết tháng 1/2024) so với tổng vốn ngân sách trung ương được bố trí.
Theo đại biểu, việc chậm giải ngân vốn dẫn đến các dự án quan trọng chậm đưa vào sử dụng làm chậm phát huy hiệu quả kinh tế xã hội. Bên cạnh nguyên nhân Đoàn giám sát nêu, nguyên nhân chính là ngay từ khâu lựa chọn dự án đưa vào chương trình đã không đảm bảo yêu cầu đặt ra là giải ngân trong 2 năm 2022 và 2023; hầu hết dự án đưa vào chương trình là dự án khởi công mới nên mất thêm thời gian cho công tác chuẩn bị đầu tư, dẫn đến giao vốn chậm và triển khai dự án chậm so với yêu cầu.
Toàn cảnh phiên họp |
Đại biểu đề nghị cần làm rõ trách nhiệm của các tổ chức cá nhân để xảy ra tình trạng này. Để tránh lãng phí và bảo đảm thực hiện các nghị quyết của Quốc hội, đại biểu đề nghị bổ sung vào dự thảo nghị quyết hai nội dung: Thứ nhất, đối với trường hợp dự án đến nay chưa khởi công hoặc chưa giải ngân cần tạm dừng triển khai. Thứ hai, trường hợp có dự án phải giải ngân sang năm 2025, số vốn chuyển sang giải ngân trong 2025 cần được trừ tương ứng vào kế hoạch đầu tư công trung hạn của giai đoạn 2026-2030 để đảm bảo công bằng giữa các địa phương.
Đại biểu Dương Văn Phước (Quảng Nam) thì đề nghị sớm tìm ra giải pháp tháo gỡ các vướng mắc về pháp lý nhằm khơi thông nguồn lực đầu tư, sản xuất kinh doanh. Theo đại biểu, chính sách tài khóa hầu hết là các dự án đầu tư thuộc Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế đã tuân thủ các nguyên tắc, tiêu chí của Nghị quyết 43/2022/QH15 của Quốc hội. Tuy nhiên, với tính chất là dự án nhóm B thường được triển khai thực hiện trong 4 năm nhưng dự án, chương trình mang tính cấp bách bắt buộc triển khai trong 2 năm (2022, 2023) và không thuộc trường hợp được phép chỉ định thầu theo khoản 1 Điều 5 Nghị quyết 43, mà vẫn phải tổ chức lựa chọn nhà thầu theo hình thức đấu thầu qua mạng. Các bước khác cũng theo quy trình thực hiện dự án thông thường nên quá trình tổ chức, triển khai gặp nhiều khó khăn, làm chậm tiến độ thực hiện các dự án.
Theo đại biểu Dương Văn Phước, chính sách đầu từ công và đầu tư phát triển chỉ giải ngân được 65,3% kế hoạch, tiến độ giải ngân nhiều dự án không đạt yêu cầu. Ngoài những nguyên nhân khách quan còn có trách nhiệm của một số Bộ, ngành Trung ương cũng như một số địa phương đã thiếu sự quyết liệt. Đại biểu đề nghị Quốc hội cần xem xét ban hành các cơ chế chính sách nhằm tiếp tục hỗ trợ, phục hồi phát triển kinh tế, xã hội cũng như các giải pháp tháo gỡ các vướng mắc, rào cản về pháp lý nhằm khơi thông nguồn lực đầu tư, sản xuất kinh doanh.
Chính phủ cần điều hành linh hoạt các chính sách tài khóa, tiền tệ, tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm tháo gỡ các khó khăn cho thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường trái phiếu doanh nghiệp cũng như thị trường bất động sản.
Nguồn: https://thoibaonganhang.vn/lam-ro-nguyen-nhan-trach-nhiem-ve-viec-du-an-trong-diem-cham-tien-do-152010.html