Tham vấn về cao tốc Cam Lộ-Lao Bảo 13.726 tỷ đồng; Tín hiệu vui cho cao tốc Phủ Lý-Nam Định 9.400 tỷ đồng
Tham vấn ý kiến về tuyến cao tốc Cam Lộ – Lao Bảo trị giá 13.726 tỷ đồng; Tín hiệu thuận cho Dự án cao tốc Phủ Lý – Nam Định trị giá 9.400 tỷ đồng…
Đó là hai trong số những thông tin về đầu tư đáng chú ý trong tuần qua.
Vướng giải phóng mặt bằng, dự án đập ngăn mặn hơn 759 tỷ đồng lại “vỡ” tiến độ
Dự án đập ngăn mặn trên sông Cái Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa khởi công ngày 25/9/2020 với tổng vốn đầu tư hơn 759 tỷ đồng. Theo kế hoạch, dự án hoàn thành và đưa vào sử dụng từ cuối năm 2022. Tuy nhiên, do vướng giải phóng mặt bằng nên dự án phải dừng thi công từ tháng 10/2023. Từ năm 2023 đến nay, địa phương đã gia hạn 2 lần và mốc mới nhất là tháng 12/2024 sẽ hoàn thành.
Do chậm bàn giao mặt bằng nên dự án không thể hoàn thành vào cuối 2024. Kế hoạch vốn đầu tư công năm 2024 đối với dự án này là 30 tỷ đồng, giá trị giải ngân đến nay là 0 đồng.
Trước thực tế này, Ban Quản lý dự án Phát triển tỉnh Khánh Hòa kiến nghị UBND TP Nha Trang sớm có ý kiến liên quan đến việc điều chỉnh/bổ sung phương án để có căn cứ thực hiện các bước tiếp theo. Đồng thời, tiếp tục chỉ đạo Ban cưỡng chế tổ chức vận động các hộ nhận tiền và bàn giao mặt bằng, đặc biệt là các hộ đã có quyết định cưỡng chế thu hồi đất và bàn giao toàn bộ mặt bằng cho dự án trước ngày 30/6/2024.
Ngoài ra, thời gian hoàn thành các hạng mục chính có giá trị lớn còn lại như mố M1, Trụ T1, T2, đường dẫn 2 đầu cầu, nhà điều hành, đường nội bộ, hạ tầng kỹ thuật, cảnh quan bờ Nam tối thiểu 8 tháng kể từ ngày bàn giao mặt bằng. Trong khi đó, dự án Đập ngăn mặn Nha Trang không thể thi công tiếp nếu vướng mặt bằng của dự án sát bên (dự án Đường Vành đai 2).
Vì vậy, chủ đầu tư kiến nghị UBND tỉnh Khánh Hòa tạm ứng ngân sách đền bù đối với các trường hợp bị ảnh hưởng bởi dự án Đường Vành đai 2 để có mặt bằng thi công, nối tiếp dự án Đập ngăn mặn trên sông Cái Nha Trang.
Chuyển động mới tại 5 dự án BOT thực hiện theo cơ chế đặc thù Nghị quyết 98
Sở Giao thông – Vận tải TP.HCM vừa ban hành 5 Quyết định phê duyệt kế hoạch lựa chọn nhà thầu thực hiện lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi đối với 5 Dự án BOT.
Dự án mở rộng Quốc lộ 13 là 1 trong 5 dự án BOT thực hiện theo cơ chế đặc thù của Nghị quyết 98. Ảnh:Lê Quân |
Năm dự án gồm: Mở rộng Quốc lộ 13 (từ cầu Bình Triệu đến ranh tỉnh Bình Dương); Mở rộng Quốc lộ 1 (từ đường Kinh Dương Vương đến ranh tỉnh Long An); Cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 22 (từ nút giao An Sương đến đường Vành đai 3); Nâng cấp đường trục Bắc – Nam, đoạn từ đường Nguyễn Văn Linh đến cao tốc Bến lức Long Thành; Xây dựng cầu đường Bình Tiên (từ đường Phạm Văn Chí đến đường Nguyễn Văn Linh).
Một số gói thầu như: tư vấn giám sát khảo sát bước lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi; tư vấn thẩm tra báo cáo nghiên cứu tiền khả thi… được thực hiện theo hình thức chỉ định thầu rút gọn.
Còn gói thầu tư vấn khảo sát và lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi sẽ được đấu thầu rộng rãi, trong nước qua mạng. Thời gian thực hiện các gói thầu từ 60 đến 150 ngày và thực hiện ngay trong quý II/2024.
Theo kế hoạch sau khi thực hiện xong bước lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, Sở Giao thông – Vận tải sẽ khảo sát sự quan tâm của nhà đầu tư vào quý IV/2024.
Sau đó sẽ tổ chức lựa chọn nhà đầu tư thông qua đấu thầu vào quý II/2025. Thực hiện ký kết hợp đồng dự án trong quý III/2025, thi công từ quý IV/2025, đưa vào khai thác từ năm 2027 đến 2028.
Hiện tại, 5 dự án BOT thực hiện theo cơ chế đặc thù của Nghị quyết 98 đang nhận được sự quan tâm của rất nhiều nhà đầu tư.
Đại diện một công ty đề xuất nâng cấp, mở rộng dự án BOT Quốc lộ 22 cho biết, điểm hấp dẫn tại các dự án BOT ở TP.HCM là tỷ lệ vốn góp của ngân sách Thành phố chiếm 50 -70% trong tổng vốn đầu tư dự án.
Trong khi các dự án chỉ có chiều dài từ 10 km trở xuống, khi có sự tham gia 50% vốn của Nhà nước, thì phần vốn góp còn lại rất phù hợp với năng lực nhà đầu tư.
Hơn nữa, khi vốn nhà nước tham gia dự án ở phần giải phóng mặt bằng, thì nhà đầu tư sẽ bớt rủi ro. Một điểm hấp dẫn nữa là, 5 dự án BOT đều nằm ở cửa ngõ TP.HCM, với mật độ xe lưu thông lớn, nên khả năng hoàn vốn nhanh hơn các dự án khác.
Tây Ninh mời gọi đầu tư vào 54 dự án trọng điểm
Mới đây, UBND tỉnh Tây Ninh ban hành danh mục Dự án thu hút đầu tư trên địa bàn tỉnh Tây Ninh năm 2024.
Danh mục gồm 6 dự án về đô thị, 15 dự án lĩnh vực đầu tư xây dựng nhà ở, 10 dự án lĩnh vực khu thương mại dịch vụ và chợ, 9 dự án lĩnh vực nông nghiệp, 3 dự án lĩnh vực du lịch và một số dự án thuộc lĩnh vực giáo dục, giao thông vận tải, thể thao, thu gom và xử lý nước thải đô thị, cấp nước đô thị.
Thủ tướng thăm gian hàng trưng bày, giới thiệu một số sản phẩm OCOP có thế mạnh của tỉnh Tây Ninh. (Ảnh:VGP) |
Trong đó, có những dự án có quy mô lớn, nổi bật như các dự án: Khu đô thị dịch vụ Trảng Bàng với diện tích 175 ha; Khu đô thị phụ cận Khu du lịch quốc gia núi Bà Ðen (TP Tây Ninh) với diện tích 266 ha; Trồng dược liệu dưới tán rừng kết hợp du lịch sinh thái và dịch vụ y khoa tại xã Hoà Hội (huyện Châu Thành) diện tích 1.200 ha, Khu trồng trọt chăn nuôi ứng dụng công nghệ cao tại xã Tân Hội, Tân Hà (huyện Tân Châu)…
Trước đó, phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị công bố Quy hoạch tỉnh Tây Ninh thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050, ông Nguyễn Thanh Ngọc, Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh cho biết, quy hoạch đã mở ra đường hướng, tầm nhìn và không gian phát triển mới, tạo động lực, giá trị mới cho Tây Ninh.
Mục tiêu đến năm 2030, Tây Ninh trở thành tỉnh phát triển năng động, văn minh, có môi trường sống tốt, thích ứng tốt với biến đổi khí hậu; đến năm 2050, Tây Ninh trở thành tỉnh có nền kinh tế phát triển dựa vào công nghiệp sạch và nông nghiệp công nghệ cao.
Về phương án phát triển hệ thống đô thị đến năm 2030, tỉnh phấn đấu có 16 đô thị. Trong đó có 1 đô thị loại II, 3 đô thị loại III, 5 đô thị loại IV, 7 đô thị loại V. Tương tự, hệ thống khu công nghiệp sẽ được phân bố chủ yếu theo các trục: QL22, QL 22B, cao tốc TP.HCM – Mộc Bài, đường Hồ Chí Minh và các trục đường kết nối với trung tâm kinh tế của Vùng…
Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính bày tỏ sự ấn tượng với khát vọng, ý chí, quyết tâm của Đảng bộ chính quyền, quân và dân tỉnh Tây Ninh trong các thời kỳ và trong xây dựng, triển khai Quy hoạch. Đồng thời phân tích và nhấn mạnh thêm một số nội dung trọng tâm.
Theo Thủ tướng Chính phủ,Tây Ninh có nhiều tiềm năng, lợi thế để phát triển. Cụ thể, Tây Ninh thuộc vùng Đông Nam Bộ, vùng kinh tế năng động, đầu tàu kinh tế của cả nước. Là tỉnh biên giới có vị trí địa chính trị quan trọng về quốc phòng, an ninh và đối ngoại của đất nước; là “phên dậu” hướng Tây Nam của Tổ quốc. Vai trò kết nối các tỉnh Tây Nguyên với Đông Nam Bộ, kết nối Đồng bằng sông Cửu Long với Đông Nam Bộ và hành lang kinh tế xuyên Á.
Tây Ninh có tiềm năng lớn phát triển kinh tế cửa khẩu, đặc biệt khi thương mại với Campuchia đang tăng rất nhanh, là điểm kết nối trực tiếp và gián tiếp với một số nước Đông Nam Á.
“Tây Ninh hội đủ 3 yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” để tăng tốc phát triển nhanh, bền vững”, Thủ tướng Phạm Minh Chính nói.
Ngoài ra, đặc thù khí hậu của Tây Ninh là ôn hòa, hầu như không bị thiên tai, bão lũ, có nguồn nước ngọt dồi dào. Sở hữu nguồn lực lao động trẻ; còn dư địa về đất đai cho sự phát triển công nghiệp, nông nghiệp tương đối lớn so với các tỉnh trong vùng Đông Nam Bộ và có tiềm năng du lịch…
“Không phải ngẫu nhiên mà Tây Ninh là nơi được chọn đặt Chiến khu D trong kháng chiến. Núi Bà Đen của Tây Ninh có rất nhiều tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh, chúng ta đã phát huy mạnh mẽ trong thời kỳ chiến tranh, gần đây tỉnh đã huy động được sức mạnh tổng hợp của người dân và doanh nghiệp để khai thác và phải tiếp tục khai thác hiệu quả trong thời gian tới. Hồ Dầu Tiếng cũng tương tự”, Thủ tướng lấy một số ví dụ.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì quy mô kinh tế của Tây Ninh còn khiêm tốn. Dịch vụ tuy tăng trưởng nhưng giá trị ngành dịch vụ đóng góp vào GRDP chưa cao. Xuất khẩu chủ yếu từ hoạt động của doanh nghiệp FDI; thu hút đầu tư có xu hướng tăng chậm lại; tiềm năng về đất đai chưa đem lại giá trị tương xứng.
Doanh nghiệp của tỉnh chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ. Công tác giảm nghèo cần làm tốt hơn, nguồn lực xây dựng nông thôn mới cần huy động hiệu quả cao. Tỷ lệ lao động tay nghề cao còn hạn chế…
Từ đó, Thủ tướng đề nghị Tây Ninh đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư. Tập trung cải thiện xếp hạng các chỉ số liên quan cải cách hành chính, môi trường đầu tư…
Với các nhà đầu tư, Thủ tướng mong muốn phát huy sứ mệnh trên tinh thần “ba cùng” giữa Nhà nước, người dân và doanh nghiệp. Cụ thể là cùng lắng nghe, thấu hiểu; cùng sẻ chia tầm nhìn và hành động; cùng làm, cùng thắng, cùng hưởng và cùng phát triển trên nguyên tắc lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ.
Thủ tướng đề nghị các nhà đầu tư xây dựng chiến lược kinh doanh lâu dài, bền vững. Thực hiện đúng cam kết đầu tư, thỏa thuận hợp tác theo đúng định hướng, ưu tiên theo quy hoạch tỉnh…
“Đã nói thì phải làm, đã cam kết thì phải thực hiện, đã thực hiện thì phải có sản phẩm cụ thể. Kết quả thực chất, cân-đong-đo-đếm được; góp phần củng cố niềm tin, tạo khí thế mới, động lực mới cho phát triển của tỉnh”, Thủ tướng lưu ý với cộng đồng doanh nghiệp, nhà đầu tư.
Tham vấn ý kiến về tuyến cao tốc Cam Lộ – Lao Bảo trị giá 13.726 tỷ đồng
Bộ Kế hoạch và Đầu tư vừa có công văn gửi Bộ GTVT tham vấn ý kiến về đầu tư Dự án tuyến đường bộ cao tốc Cam Lộ – Lao Bảo, tỉnh Quảng Trị.
Ảnh minh hoạ. |
Theo đó, để có cơ sở báo cáo Thủ tướng Chính phủ, Bộ Kế hoạch và đầu tư đề nghị Bộ GTVT có ý kiến đối với một số nội dung liên quan đến đề xuất của UBND tỉnh Quảng Trị về việc áp dụng cơ chế, chinh sách đặc thù và hỗ trợ ngân sách tham gia vào Dự án tuyến đường bộ cao tốc Cam Lộ – Lao Bảo theo phương thức PPP.
Một là, sự cần thiết và tính khả thi thực hiện đầu tư Dự án tuyến đường bộ cao tốc Cam Lộ – Lao Bảo trong giai đoạn trước năm 2030.
Hai là, phân tích thực trạng Quốc lộ 9 (theo quy hoạch mạng lưới đường bộ thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 – Quy hoạch 1454, Quốc lộ 9 có điểm đầu tại cảng Cửa Việt, điểm cuối tại cửa khẩu Lao Bảo, dài 118 km, quy mô cấp II, cấp III, 2 – 4 làn xe) về quy mô, hiện trạng thực tế, lưu lượng xe lưu thông trên tuyến.
Ba là, về sự phù hợp với quy hoạch. Hiện hướng tuyến đề xuất của tuyến đường bộ cao tốc Cam Lộ – Lao Bảo có sự khác biệt về điểm đầu tuyến so với quy hoạch được duyệt. Theo Quy hoạch 1454, tuyến có điểm đầu tại TP. Đông Hà, tỉnh Quảng Trị. Tuy nhiên, tại Quyết định số 1737/QĐ – TTg ngày 29/12/2023 phê duyệt quy hoạch tỉnh Quảng Trị thời kỳ 2021 – 2020, tầm nhìn đến năm 2050, Thủ tướng đã quyết định điều chỉnh hướng tuyến và chuyển điểm đầu cao tốc Cam Lộ – Lao Nảo sang khu vực huyện Triệu Phong, dẫn đến chiều dài tuyến còn 59,5 km so với 70 km theo Quy hoạch 1454.
Bốn là, về sơ bộ tổng mức đầu tư Dự án tuyến đường bộ cao tốc Cam Lộ – Lao Bảo do UBND tỉnh Quảng Trị đề xuất hồi cuối tháng 2/2024.
Trước đó, UBND tỉnh Quảng Trị đã có Tờ trình số 18/TTr – UBND gửi Thủ tướng Chính phủ đề nghị được áp dụng cơ chế, chinh sách đặc thù và hỗ trợ ngân sách tham gia vào Dự án PPP đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Cam Lộ – Lao Bảo, tỉnh Quảng Trị.
Tại tờ trình này, UBDN tỉnh Quảng Trị kiến nghị Thủ tướng xem xét trình Quốc hội cho phép áp dụng cơ chế, chính sách đặc thù đối với Dự án PPP đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Cam Lộ – Lao Bảo, tỉnh Quảng Trị với tỷ lệ vốn nhà nước tham gia vào dự án là 70% tổng mức đầu tư.
Trong điều kiện nguồn lực của tỉnh Quảng Trị còn nhiều khó khăn, nhằm sớm hoàn thiện các thủ tục để triển khai Dự án hoàn thành trước năm 2030 theo định hướng, quy hoạch đã được phê duyệt, UBND tỉnh Quảng Trị đề xuất người đứng đầu Chính phủ quan tâm hỗ trợ, bố trí vốn từ ngân sách trung ương giai đoạn trung hạn 2026-2030 làm phần vốn nhà nước tham gia vào Dự án PPP đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Cam Lộ – Lao Bảo là 9.608 tỷ đồng; đồng thời bổ sung Dự án vào Danh mục các công trình, dự án trọng điểm quốc gia, trọng điểm ngành GTVT.
Theo Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án PPP đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Cam Lộ – Lao Bảo do UBND tỉnh Quảng Trị vừa hoàn tất, công trình này có tổng chiều dài 56 km, với điểm đầu giao với tuyến cao tốc Cam Lộ – La Sơn và điểm cuối tại cửa khẩu quốc tế Lao Bảo; đi qua 4 huyện: Triệu Phong, Cam Lộ, Đakrông, Hướng Hóa thuộc tỉnh Quảng Trị.
Tuyến đường thuộc Dự án được đầu tư theo quy mô 4 làn xe hoàn thiện, chiều rộng nền đường 24,75m, vận tốc thiết kế 100 km/h.
Tổng mức đầu tư Dự án (chưa bao gồm lãi vay trong quá trình xây dựng) là 13.726 tỷ đồng. Trong đó, chi phí giải phóng mặt bằng của Dự án là 676 tỷ đồng; chi phí xây dựng là 10.643 tỷ đồng; chi phí thiết bị là 222 tỷ đồng; chi phi quản lý dự án, tư vấn và chi khác là 1.086 tỷ đồng; chi phí dự phòng là 1.099 tỷ đồng.
Dự kiến vốn ngân sách nhà nước tham gia vào Dự án là 9.608 tỷ đồng (chiếm 70%); vốn nhà đầu tư huy động (Chủ sở hữu, vốn vay và vốn khác) là 4.581 tỷ đồng (chiếm 30%). Thời gian thực hiện Dự án là từ năm 2024 đến năm 2028.
UBND tỉnh Quảng Trị cho biết, do Dự án đi qua các huyện Hướng Hóa, Đakrông, Cam Lộ, Triệu Phong có điều kiện đặc biệt khó khăn và theo dự báo lưu lượng phương tiện tham gia trong giai đoạn đầu chưa cao nên phương án tài chính của dự án khi áp dụng theo quy định tại khoản 2 Điều 69 của Luật đầu tư theo phương thức PPP (tỷ lệ vốn nhà nước tham gia vào dự án không quá 50% tổng mức đầu tư) không khả thi, kéo dài thời gian hoàn vốn, khó khăn trong việc huy động vốn của các nhà đầu tư và các tổ chức tín dụng.
“Để đảm bảo tính khả thi và thuận lợi trong việc thu hút vốn đầu tư ngoài ngân sách nhà nước theo phương thức PPP, nâng cao tính khả thi của phương án tài chính, rút ngắn thời gian hoàn vốn (còn 28,7 năm), với sự tham gia phần vốn nhà nước chiếm 70% tổng mức đầu tư Dự án”, lãnh đạo UBND tỉnh Quảng Trị tính toán.
Lâm Đồng và Phú Yên hợp tác phát triển nông nghiệp, du lịch, khoa học – công nghệ
Theo Ban Thường vụ Tỉnh ủy Lâm Đồng, tỉnh Lâm Đồng và Phú Yên đã định hướng chương trình hợp tác trong thời gian tới. Theo đó, 2 tỉnh thống nhất chương trình hợp tác trong giai đoạn mới cần nghiên cứu, mở rộng nội dung hợp tác đi vào chiều sâu về lĩnh vực nông nghiệp, du lịch, khoa học – công nghệ, xây dựng nông thôn mới, công tác xây dựng Đảng.
Lâm Đồng và Phú Yên sẽ nghiên cứu, mở rộng nội dung hợp tác đi vào chiều sâu về lĩnh vực nông nghiệp, du lịch, khoa học – công nghệ… |
Trong đó, ngoài liên kết, hợp tác giữa sở, ngành của 2 tỉnh trên cơ sở các chương trình đã ký kết, cần mở rộng hợp tác giữa các huyện giữa hai địa phương và với các đối tượng khác nhằm lan tỏa, tăng cường hợp tác sâu, hiệu quả hơn ở một số lĩnh vực hai bên đã thống nhất; hợp tác, chia sẻ thông tin, thu hút doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp trên cơ sở thế mạnh của từng địa phương, trọng tâm là các Dự án xây dựng nhà máy chế biến nông, lâm sản, nhất là nhà máy chế biến sữa; tăng cường quảng bá, xúc tiến thương mại cho nông sản, sản phẩm OCOP của 2 tỉnh thông qua các Hội nghị xúc tiến tiêu thụ nông sản; phối hợp trưng bày sản phẩm của 2 tỉnh tại các điểm bày và bán nông sản, sản phẩm OCOP tại 2 địa phương; nghiên cứu xây dựng chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm quy mô liên tỉnh đối với một số nông sản như sữa, rau, trái cây… ; chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm giữa các cấp quản lý nhà nước về du lịch của hai địa phương, thực hiện các chương trình liên kết bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực du lịch.
Đặc biệt, Phú Yên và Lâm Đồng sẽ liên kết phát triển tour, tuyến du lịch, kết nối điểm đến du lịch giữa hai địa phương thông qua tổ chức cho doanh nghiệp hai địa phương khảo sát các tour, điểm du lịch mới để phát triển sản phẩm du lịch và kết nối vào chương trình du lịch chung, hình thành tour “Con đường di sản miền Trung” gắn với “Con đường xanh Tây Nguyên”.
Đồng thời, 2 tỉnh thống nhất tổ chức Hội nghị tổng kết chương trình hợp tác giữa tỉnh Lâm Đồng và tỉnh Phú Yên giai đoạn 2016 – 2026 và ký kết chương trình hợp tác trong thời gian tới.
Ban Thường vụ Tỉnh ủy Lâm Đồng giao Ban cán sự đảng UBND tỉnh Lâm Đồng lãnh đạo UBND tỉnh chỉ đạo các sở, ngành, địa phương của tỉnh phối hợp với các sở, ngành, địa phương liên quan của tỉnh Phú Yên để xây dựng dự thảo Chương trình hợp tác giữa tỉnh Lâm Đồng và tỉnh Phú Yên trong thời gian tới; báo cáo xin ý kiến Ban Thường vụ 3 tỉnh.
Cần Thơ ban hành Chỉ thị hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn đẩy mạnh sản xuất công nghiệp
Ngày 7/5, UBND TP. Cần Thơ ban hành Chỉ thị số 13/CT-UBND về việc tăng cường hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đẩy mạnh sản xuất công nghiệp trên địa bàn TP. Cần Thơ.
Theo UBND TP. Cần Thơ, trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp và ngày càng nhiều khó khăn, thách thức, để góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội năm 2024 theo Nghị quyết 17-NQ/TU ngày 4/12/2023 của Thành ủy Cần Thơ, tập trung thúc đẩy đầu tư phát triển doanh nghiệp, phát huy hiệu quả sản xuất kinh doanh; xây dựng và phát triển TP. Cần Thơ nhanh và bền vững để góp phần đánh dấu chặng đường 20 năm TP. Cần Thơ trực thuộc Trung ương, Chủ tịch UBND thành phố yêu cầu Thủ trưởng các sở, ban, ngành thành phố; Chủ tịch UBND quận, huyện; các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp trên địa bàn thành phố tổ chức thực hiện nhiều nội dung quan trọng.
Cụ thể, Chủ tịch UBND TP. Cần Thơ yêu cầu Sở Công Thương đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu hàng hóa. Tập trung hướng dẫn, giúp đỡ các doanh nghiệp, người sản xuất kinh doanh trong hoạt động sản xuất kinh doanh bám sát tín hiệu thị trường; kịp thời có những thông tin, cảnh báo, hướng dẫn doanh nghiệp phản ứng phù hợp khi đối mặt với các rào cản kỹ thuật trong phòng vệ thương mại của các nước.
Thực hiện có hiệu quả công tác tư vấn, chương trình kết nối doanh nghiệp, chương trình hỗ trợ sản xuất, các giải pháp hỗ trợ khôi phục sản xuất gắn với việc thực hiện cơ cấu lại ngành công nghiệp thành phố.
Sở Kế hoạch và Đầu tư tập trung đẩy mạnh cải cách hành chính và thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh để tạo điều kiện hỗ trợ thành lập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.
Phối hợp với các đơn vị có liên quan tháo gỡ những điểm nghẽn, rào cản pháp lý đang cản trở hoạt động đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp để củng cố niềm tin và tạo động lực kinh doanh cho doanh nghiệp; tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi và thu hút đầu tư vào thành phố.
Huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực cho đầu tư phát triển gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng. Theo dõi tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp và họp tác xã nhằm tham mưu giải quyết các khó khăn, rào cản đối với hoạt động của doanh nghiệp, hợp tác xã…
Sở Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn các địa phương thực hiện thủ tục hành chính cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất cho tổ chức, người dân phải nhanh, đúng quy định trên nguyên tắc đơn giản thủ tục, không gây phiền hà, sách nhiễu người dân, doanh nghiệp trong quá trình thực hiện.
Cục Thuế thành phố nỗ lực triển khai thực hiện quyết liệt các giải pháp, tháo gỡ kịp thời khó khăn, vướng mắc trong lĩnh vực thuế để hỗ trợ doanh nghiệp giảm gánh nặng chi phí để tập trung cho sản xuất kinh doanh, từng bước phục hồi, phát triển và tăng đóng góp cho ngân sách nhà nước.
Kịp thời cập nhật các điều chỉnh, bổ sung về chính sách ưu đãi thuế cùng với những cải cách, nâng cao môi trường kinh doanh, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, góp phần trong việc nâng cao tính hấp dẫn của môi trường đầu tư của thành phố.
Chủ tịch UBND TP. Cần Thơ cũng yêu cầu UBND quận, huyện chủ động nắm bắt tình hình, kịp thời phản ánh những khó khăn vướng mắc tại địa phương; phối hợp cùng cấp thẩm quyền nhanh chóng tháo gỡ những điểm nghẽn, rào cản pháp lý đang cản trở hoạt động đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp để củng cố niềm tin và tạo động lực kinh doanh cho doanh nghiệp; tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi trong thu hút đầu tư…
Tiến độ mới nhất của Dự án Khu bến cảng Mỹ Thuỷ sau khi tái khởi động
Dự án Khu bến cảng Mỹ Thuỷ được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chủ trương đầu tư tại Quyết định số 16/QĐ-TTg ngày 4/1/2019. Dự án do Công ty cổ phần Liên doanh cảng quốc tế Mỹ Thủy (MTIP) làm chủ đầu tư thực hiện.
Dự án có quy mô 10 bến, tổng vốn đầu tư 14.234 tỷ đồng; tiến độ thực hiện từ năm 2018-2035. Trong đó, giai đoạn 1 từ 2018-2025 với quy mô 4 bến, vốn đầu tư 4.946 tỷ đồng (tại Quyết định số 04/QĐ-MTIP ngày 19/7/2023 của MTIP phê duyệt Báo cáo nghiên cứu khả thi giai đoạn 1 là 6.073 tỷ đồng).
Phối cảnh Dự án Khu bến cảng Mỹ Thuỷ. |
Theo BQL Khu kinh tế Quảng Trị cho biết, về thủ tục pháp lý, đến nay dự án đã hoàn thành được nhiều thủ tục đầu tư như: Quy hoạch chi tiết xây dựng; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; phê duyệt thiết kế cơ sở, phê duyệt Báo cáo nghiên cứu khả thi dự án (F/S); phê duyệt thiết kế kỹ thuật thi công; giao khu vực biển; cấp phép thi công đợt 1 khoảng 320 m hạng mục kè chắn sóng phía Tây; đưa dự án ra khỏi khu vực dự trữ khoáng sản quốc gia; chuyển đổi mục đích sử dụng rừng.
Với công tác giải phóng mặt bằng (GPMB), trong giai đoạn 1, dự án đã được phê duyệt phương án bồi thường hỗ trợ và người dân đã đồng thuận diện tích 125,49/133,67 ha (đạt 93,88%); tổng kinh phí GPMB đã chi trả là 97,32 tỷ đồng; đã cho thuê đất đợt 1 với diện tích 104,71 ha; và hiện còn 8,18 ha người dân chưa đồng thuận. Hiện nay, UBND tỉnh Quảng Trị đang tập trung đôn đốc các sở, ngành, địa phương khẩn trương giải quyết các vướng mắc để hoàn thành trước ngày 30/5/2024.
Về tiến độ thi công, sau khi tái khởi động lại dự án vào ngày 25/3 vừa qua, hiện nay nhà đầu tư (MTIP) đang tổ chức thi công bãi chứa cấu kiện khối phủ 4T, 12T, diện tích 1,96 ha; đường công vụ, bãi chứa cấu kiện khối 1A, 1B, 2A,2B diện tích 0.41 ha; Trạm cân kiểm soát vật liệu.
Bên cạnh đó, dự án đã thi công bến tạm (bắt đầu từ 25/4/2024) và đã thi công tuyến đê, kè phía đông (bắt đầu từ ngày 5/5/2024). Dự kiến các hạng mục công việc đang triển khai này sẽ hoàn thành trước 20/5/2024 để tiến hành thi công các hạng mục chính theo giấy phép xây dựng đã được cấp.
Cũng theo BQL Khu kinh tế Quảng Trị, hiện nay dự án vẫn đang gặp một số khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện.
Về vị trí đổ cát, chất nạo vét, diện tích làm bãi tạm hiện nay đã được xác định với diện tích khoảng 58 ha (gồm bãi tạm diện tích 18,4 ha trong khu vực dự án được Bộ Tài nguyên và Môi trường phê duyệt tại Báo cáo đánh giá tác động môi trường dự án; khu đất diện tích khoảng 20 ha đã được cấp quyền sử dụng đất cho Công ty cổ phần đầu tư và khoáng sản VICO tại Khu kinh tế Đông Nam; bãi tạm có diện tích khoảng 10- 20 ha, vị trí từ đường cứu hộ đoạn tiếp giáp ranh giới với dự án Cảng quốc tế Mỹ Thủy chạy dọc bờ biển và sát khu đất Dự án nhà máy nhiệt điện BOT Quảng Trị 1) chưa đảm bảo để chứa khoảng 17 triệu m3 sản phẩm nạo vét của dự án.
MTIP đã đề xuất thực hiện thủ tục GPMB giai đoạn 2 và giai đoạn 3 của dự án để phục vụ làm bãi tạm tập kết chất nạo vét. Hiện nay UBND tỉnh Quảng Trị đã giao Sở Tài nguyên và Môi trường nghiên cứu quy định pháp luật về đất đai và các quy định pháp luật có liên quan để hướng dẫn huyện Hải Lăng và MTIP thực hiện theo quy định.
Đối với phương án thu hồi khoáng sản trong phạm vi thực hiện dự án, hiện nay MTIP đang xây dựng phương án khai thác tổng thể trên toàn khu vực để báo cáo Bộ Tài nguyên và Môi trường (Theo ý kiến của Cục Khoáng sản Việt Nam tại Công văn số 53/2023/CV-PTDA ngày 11/12/2023).
BQL Khu kinh tế Quảng Trị cho biết, trong thời gian tới, Ban sẽ tiếp tục tham mưu ý kiến UBND tỉnh để đôn đốc các sở, ngành, địa phương giải quyết các khó khăn, vướng mắc để hoàn thành công tác GPMB diện tích còn lại (8,18 ha) và diện tích bổ sung của giai đoạn 2 khoảng 43,44 ha theo đề xuất của nhà đầu tư để phục vụ mặt bằng thi công giai đoạn 1. Đôn đốc, chỉ đạo các sở, ngành làm việc với các bộ, ngành trung ương để sớm cho ý kiến về phương án nạo vét vũng quay tàu; ý kiến về phương án tận thu sản phẩm nạo vét của dự án.
Tập trung chỉ đạo, đôn đốc, giám sát nhà đầu tư triển khai thi công đê chắn sóng, cầu cảng và các công trình phụ trợ khác để đưa vào sử dụng ít nhất 1 cầu cảng trong năm 2025.
Nghệ An xây dựng huyện Con Cuông thành trung tâm Tiểu vùng phía Tây Nam
Phó chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An – ông Lê Hồng Vinh vừa ký ban hành Quyết định số 1069/QĐ-UBND về việc phê duyệt nhiệm vụ Quy hoạch xây dựng vùng huyện Con Cuông thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Theo đó, diện tích nghiên cứu lập quy hoạch khoảng 174.000 ha, gồm 31 đơn vị hành chính bao gồm: Thị trấn Con Cuông và các xã: Bình Chuẩn, Bồng Khê, Cam Lâm, Châu Khê, Chi Khê, Đôn Phục, Lạng Khê, Lục Dạ, Mậu Đức, Môn Sơn, Thạch Ngàn, Yên Khê.
Quy hoạch xây dựng vùng huyện Con Cuông gồm các nhiệm vụ: Phân tích, đánh giá tổng hợp hiện trạng và các nguồn lực phát triển vùng kinh tế, lao động, dân cư, đất đai; đề xuất phát triển hệ thống đô thị, các khu dân cư nông thôn tập trung trên cơ sở khai thác lợi thế riêng của huyện Con Cuông về nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, du lịch và dịch vụ thúc đẩy phát triển đa dạng ngành kinh tế.
Đề xuất cấu trúc không gian vùng huyện với các trục liên kết hệ thống đô thị, trung tâm cụm xã, hệ thống điểm dân cư nông thôn gắn kết với các trung tâm kinh tế huyện và khu vực; phân bố không gian phát triển nông nghiệp, công nghiệp xây dựng, du lịch – dịch vụ, hệ thống hạ tầng xã hội, các công trình hạ tầng kỹ thuật, đảm bảo phát triển bền vững đô thị và nông thôn; bổ sung và khớp nối các Dự án đã và đang thực hiện trên phạm vi địa bàn.
Đối với khu vực nông thôn: Đảm bảo thực hiện những quan điểm chủ đạo trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội và chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới, nghiên cứu các mô hình đặc trưng cho khu vực nông thôn huyện Con Cuông.
Xây dựng huyện Con Cuông là trung tâm tiểu vùng phía Tây Nam của Nghệ An, phát triển các trung tâm dịch vụ y tế, đào tạo nghề, du lịch… Có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của vùng Tây Nam, có tiềm năng phát triển Khu du lịch sinh thái gắn với bảo tồn phát triển Khu dự trữ sinh quyển thế giới (Khu dự trữ sinh quyển Pù Mát). Là huyện có vị trí quan trọng về chính trị, an ninh quốc phòng biên giới phía Tây Nam Nghệ An.
Quy mô dân số hiện trạng là 76.234 người; đến năm 2030 dự kiến khoảng 105.000 – 115.000 người; năm 2050 dự kiến khoảng 125.000 – 135.000 người. Hiện trạng tỷ lệ đô thị hóa khoảng 7% – 8%; đến năm 2030 dự kiến khoảng 28 – 30%; năm 2050 dự kiến khoảng 33% – 35%…
Đề xuất tổ chức không gian đô thị, phân cấp đô thị, lựa chọn hình thái, cấu trúc, chức năng và quy mô các đô thị theo vùng và khu vực. Trong đó, trọng tâm là thị trấn huyện lỵ Con Cuông và định hướng trong mỗi phân vùng sẽ quy hoạch điểm đô thị làm trung tâm phát triển cho vùng nhằm khai thác, phát huy các tiềm năng lợi thế của khu vực về phát triển du lịch sinh thái, chế biến nông, lâm sản. Đề xuất hệ thống không gian các khu chức năng, cụ thể về quy mô, loại hình, ưu tiên chế biến lâm sản, dịch vụ nông nghiệp, bố trí các khu vực cần gắn với các địa bàn đô thị, trung tâm cụm xã, nông thôn, vùng sản xuất nông – lâm nghiệp, đảm bảo các yêu cầu về khoảng cách ly an toàn, bảo vệ môi trường.
Đồng thời, rà soát, xem xét sự hình thành của các trung tâm cụm xã trong định hướng tình hình mới về phát triển nông nghiệp công nghệ cao, dịch vụ, du lịch,… đặc biệt đối với các xã đã có quy hoạch được duyệt để xác lập những yêu cầu cần thiết của việc điều chỉnh quy hoạch. Rà soát quy hoạch trên địa bàn huyện, các điểm dân cư tập trung có khả năng đô thị hóa, các đô thị mới có khả năng hình thành trên địa bàn huyện. Đề xuất mô hình nông thôn mới, các khu tái định cư phục vụ các dự án động lực, quy mô lớn.
Quy hoạch xây dựng vùng huyện Con Cuông được xây dựng với mục đích định hướng phát triển thống nhất về không gian, hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội gắn kết chặt chẽ với quy hoạch tỉnh; đảm bảo kết nối đồng bộ với các địa phương lân cận như Nghĩa Đàn, Thái Hòa, Tân Kỳ, Anh Sơn, Tương Dương và Kỳ Sơn; phát triển du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái, thể thao mạo hiểm, du lịch nông nghiệp, nông thôn dọc Quốc lộ 7; phát triển hài hòa giữa các vùng đô thị và nông thôn. Đồng thời, tôn trọng tự nhiên, ứng phó với các vấn đề về biến đổi khí hậu để đảm bảo cho sự phát triển bền vững.
Quy hoạch cũng nhằm cụ thể hóa Quy hoạch tỉnh Nghệ An giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050; cụ thể hóa định hướng phát triển huyện Con Cuông tại Nghị quyết đại hội Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2020-2025 và Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Con Cuông lần thứ XXVI, nhiệm kỳ 2020 – 2025. Đồng thời phát huy vị thế và sức mạnh tổng hợp của huyện trong phát triển kinh tế – xã hội gắn với định hướng bền vững, khai thác có hiệu quả mối quan hệ nội và ngoại vùng. Trong đó tập trung các thế mạnh nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch và các loại hình công nghiệp dịch vụ du lịch. Đề xuất phân bố không gian xây dựng các khu công nghiệp, dịch vụ và hệ thống hạ tầng xã hội và các điểm dân cư nông thôn… trong đó xác định vùng động lực phát triển kinh tế – xã hội, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo hướng cân bằng và bền vững.
Tín hiệu thuận cho Dự án cao tốc Phủ Lý – Nam Định trị giá 9.400 tỷ đồng
Bộ Giao thông Vận tải (GTVT) vừa có công văn gửi Văn phòng Chính phủ tham gia ý kiến đối với phương án đầu tư Dự án xây dựng đường cao tốc Phủ Lý (Hà Nam) – TP. Nam Định.
Ảnh minh hoạ. |
Theo cơ quan quản lý Nhà nước chuyên ngành giao thông, tuyến cao tốc Phủ Lý – Nam Định (CT.11) dài 50km, quy mô 4 làn xe, trong đó đoạn Phủ Lý – TP. Nam Định, dài 25 km, tiến trình đầu tư trước năm 2030.
Hiện nay tuyến Phủ Lý – TP. Nam Định đang khai thác theo quy mô đường cấp II, 4 làn xe và UBND tỉnh Nam Định là cơ quan có thẩm quyền ký kết hợp đồng BOT, BT.
Theo báo cáo của UBND tỉnh Nam Định, sau hơn 10 năm đưa vào khai thác, tuyến Phủ Lý – TP. Nam Định có lưu lượng giao thông tăng cao vào khoảng 18.464 xe/ngày.đêm.
Vì vậy, Bộ GTVT cho rằng, việc nghiên cứu nâng cấp đoạn tuyến lên quy mô cao tốc theo quy hoạch để đáp ứng nhu cầu vận tải, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của địa phương là cần thiết.
Theo Bộ GTVT, UBND tỉnh Nam Định dự kiến sử dụng ngân sách địa phương khoảng 1.000 tỷ đồng để thực hiện GPMB và do dự án đi qua địa bàn 2 tỉnh nên cần phải áp dụng cơ chế, chính sách do Quốc hội quyết định.
Theo khoản 5 Điều 7 Luật Đầu tư công, Dự án xây dựng đường cao tốc Phủ Lý – Nam Định xuất hiện tiêu chí dự án quan trọng quốc gia. Trong trường hợp này, theo khoản 1 Điều 19 Luật Đầu tư công, Thủ tướng Chính phủ có thể giao cơ quan thực hiện nhiệm vụ lập Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
“Để sớm triển khai đầu tư tuyến cao tốc Phủ Lý – TP. Nam Định, việc giao UBND tỉnh Nam Định lập Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án (thực hiện nhiệm vụ chuẩn bị đầu tư) là có cơ sở, tương tự như một số tuyến cao tốc đã được Thủ tướng Chính phủ giao các địa phương thực hiện công tác chuẩn bị đầu tư”, công văn của Bộ GTVT cho biết.
Tuy nhiên, Bộ GTVT đề nghị UBND tỉnh Nam Định rà soát tiến trình triển khai công tác chuẩn bị đầu tư dự án, khả năng huy động nguồn vốn và thời hạn thu phí theo hợp đồng BOT của dự án để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong quá trình triển khai.
Bên cạnh đó, do sơ bộ tổng mức đầu tư dự án do UBND tỉnh Nam Định đề xuất vào khoảng 9.400 tỷ đồng, suất đầu tư khoảng 375 tỷ đồng/km cao hơn nhiều so với suất đầu tư của tuyến đường cao tốc xây dựng mới được Bộ Xây dựng công bố.
Vì vậy, Bộ GTVT đề nghị địa phương rà soát giải pháp thiết kế, chi phí xây dựng theo quy định hiện hành, bảo đảm tiết kiệm và hiệu quả; đồng thời rà soát tình hình triển khai công tác chuẩn bị đầu tư, thời gian thu phí của dự án BOT (hết năm 2028) để xác định cụ thể thời điểm thực hiện.
Trước đó, UBND tỉnh Nam Định đã có Tờ trình số 34/TTr – UBND đề nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép tỉnh này lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án xây dựng tuyến đường cao tốc Hà Nam – Nam Định, giai đoạn 1 từ TP. Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đến TP. Nam Định, tỉnh Nam Định.
Trong giai đoạn 1, Dự án sẽ đầu tư xây dựng đoạn từ đầu tuyến Km0+00 (Đường cao tốc Cầu Giẽ – Ninh Bình, tỉnh Hà Nam) đến giao với Quốc lộ 10, TP. Nam Định trước năm 2030 (Giai đoạn 2021 – 2025 và 2026 – 2030) với chiều dài khoảng 25,1 km, trong đó đoạn qua địa phận tỉnh Hà Nam khoảng 16,6 km, đoạn qua địa phận tỉnh Nam Định khoảng 8,5 km.
Tuyến đường thuộc Dự án sẽ xây dựng theo quy mô tiêu chuẩn đường cao tốc 4 làn xe hoàn chỉnh, làn dừng khẩn cấp 2 bên, đường song hành, đường gom 2 bên, vận tốc thiết kế 100 km/h.
Tổng mức đầu tư Dự án giai đoạn 1 dự kiến khoảng 9.400 tỷ đồng từ nguồn Ngân sách trung ương, ngân sách tỉnh và các nguồn vốn hợp pháp khác. Thời gian thực hiện Dự án giai đoạn I là từ năm 2024 đến năm 2028; toàn bộ chi phí giải phóng mặt bằng do UBND tỉnh Nam Định, Hà Nam tự bố trí đối với đoạn tuyến đi qua địa bàn tỉnh.
Cũng tại Tờ trình số 34, UBND tỉnh Nam Định đề nghị Chính phủ giao làm cơ quan có thẩm quyền triển khai Dự án xây dựng hoàn chỉnh tuyến đường cao tốc Hà Nam – Nam Định.
Đối với đoạn BOT (từ trạm thu phí Mỹ Lộc tỉnh Nam Định đến Quốc lộ 10, TP. Nam Định dài khoảng 3,9 km) hết hạn thu phí năm 2028, UBND tỉnh Nam Định sẽ đàm phán để thanh lý hợp đồng vào năm 2025 (thời điểm khởi công dự án) bằng ngân sách tỉnh để đầu tư đồng bộ theo quy mô đường cao tốc trên toàn tuyến.
Chủ đầu tư nói gì về vết nứt tại dự án kè sông Cần Thơ, vốn nghìn tỷ
Vừa qua, tại công trình Gói thầu xây lắp số 1 (thuộc Dự án kè bờ sông Cần Thơ – Ứng phó biến đổi khí hậu TP. Cần Thơ) xuất hiện hiện tượng nứt dọc cục bộ bê tông lót tại một số vị trí bê tông lót phía sau kè với chiều dài khoảng 200 m (từ điểm tuyến P4 đến P6), cách cầu Cái Sơn khoảng 210 m hướng về phía huyện Phong Điền. Hiện tượng này đã được người dân và báo chí phản ánh.
Ngày 8/5/2024, Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng TP. Cần Thơ đã có Công văn số 698/BC-BQLDA gửi UBND TP. Cần Thơ báo cáo nhanh về nguyên nhân gây ra hiện tượng nứt dọc cục bộ tại một số vị trí bê tông lót vỉa hè phía sau kè gói thầu xây lắp số 1, Dự án Kè bờ sông Cần Thơ – Ứng phó biến đổi khí hậu TP. Cần Thơ.
Tại công văn này, Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng TP. Cần Thơ cho biết, qua công tác kiểm tra của Ban và nhà thầu thi công, vị trí nứt dọc cục bộ thuộc mặt cắt MC14 đến MC26. Theo hồ sơ thiết kế được duyệt, mặt cắt ngang kè đoạn không tiếp giáp Đường tỉnh 923 có chiều rộng là 15m (bao gồm: phạm vi vỉa hè 3,1m; công viên 4,6m, ngăn cách gờ bó vỉa 2x20cm; phần đường bê tông 4,2m; rãnh thoát nước và mái taluy 2,3m). Kết cấu phía sau kè là đắp cát từng lớp K95 đến cao độ hoàn thiện +2,45m. Phạm vi vỉa hè đắp cát K95, cao độ +2,7m, với chiều cao đắp 2m, sau đó thi công lớp bê tông lót M150 dày 10cm, lát gạch Terazzo (40×40 cm) hoàn thiện.
“Qua công tác kiểm tra thực tế tại hiện trường và trao đổi với đơn vị tư vấn thiết kế, nhà thầu thi công để xác định nguyên nhân vị trí xảy ra hiện tượng nứt dọc cục bộ tại một số vị trí là phần bê tông lót vỉa hè M150, nguyên nhân chính nứt phần bê tông lót vỉa hè là do lún lệch cục bộ giữa phần bê tông lót nằm trên bản đáy tường kè (trên hệ cọc bê tông cốt thép, ổn định không bị lún) với phần bê tông lót nằm trên nền cát K95, vị trí xảy ra vết nứt nêu trên có chiều cao lớp cát đắp là 2m, nằm trên nền đất yếu thuộc khu vực đã xảy ra sạt lở vào năm 2020 và năm 2021 nêu trên; mặt khác do nền cát đắp phía sau tường kè theo hồ sơ thiết kế không xử lý nền đất yếu dẫn đến việc lún cố kết tự nhiên theo thời gian”, theo Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng TP. Cần Thơ.
Đối với tường kè đã thi công hoàn thành, qua kết quả quan trắc của nhà thầu thi công thì tường kè vẫn đảm bảo ổn định, đảm bảo theo yêu cầu kỹ thuật của hồ sơ thiết kế.
Từ các nguyên nhân nêu trên, Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng TP. Cần Thơ, đơn vị tư vấn thiết kế đã đề nghị nhà thầu thi công phá dỡ lớp bê tông lót vỉa hè nêu trên, tiến hành bù cát và lu lèn, chờ quan trắc ổn định mới tiếp tục thi công hoàn thiện.
Dự án kè bờ sông Cần Thơ – Ứng phó biến đổi khí hậu TP. Cần Thơ có chiều dài toàn tuyến là 5.160 m, bao gồm đoạn kè bảo vệ bờ phải từ cầu Cái Sơn thuộc phường An Bình, quận Ninh Kiều đến tiếp giáp Dự án kè chống sạt lở khu vực chợ Mỹ Khánh, huyện Phong Điền dài 2.710 m và đoạn kè bảo vệ bờ trái từ cầu Cái Răng đến rạch Ba Láng, phường Lê Bình, quận Cái Răng hướng về huyện Phong Điền, dài 2.450 m. Dự án có tổng mức đầu tư hơn 1.095 tỷ đồng, từ nguồn vốn ODA do Cơ quan Phát triển Pháp (AFD) tài trợ và vốn đối ứng ngân sách địa phương.
Dự án được chia làm 4 gói thầu, trong đó, Gói thầu xây lắp số 1 có chiều dài 1.346 m, từ cầu Cái Sơn (phường An Bình, quận Ninh Kiều) đến vị trí cách cầu Rau Răm khoảng 100 m về phía quận Ninh Kiều.
Gói thầu xây lắp số 1 được khởi công ngày 16/4/2020 đến nay. Công tác bàn giao mặt bằng thi công được chia làm 9 đợt (từ ngày 16/4/2020 đến tháng 2/2024), với chiều dài bàn giao là 1.316 m. Giá trị thực hiện đến nay 133,047/138,431 tỷ đồng, đạt 96,1% giá trị hợp đồng.
Phú Yên phê duyệt đồ án điều chỉnh quy hoạch Khu công nghiệp Hòa Hiệp 1
Ban Quản lý Khu kinh tế Phú Yên cho biết, Khu công nghiệp Hòa Hiệp 1 được điều chỉnh tăng diện tích từ 101,5 ha lên 102,33 ha.
Cụ thể, theo Đồ án điều chỉnh quy hoạch phân khu xây dựng tỷ lệ 1/2000 được UBND tỉnh Phú Yên phê duyệt ngày 9/5/2024, Khu công nghiệp Hòa Hiệp 1 có tổng diện tích điều chỉnh quy hoạch là 102,33 ha. Trong đó, đất xây dựng nhà máy là 67,18 ha; đất giao thông là 17,19 ha; đất cây xanh là 14,08 ha; đất khu trung tâm, dịch vụ 1,16 ha…Chỉ tiêu lao động là 5.500 người.
Về tính chất, Khu công nghiệp Hòa Hiệp 1 có tính chất là khu công nghiệp đa ngành có giá trị gia tăng cao; trong đó, ưu tiên các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, ít gây ô nhiễm, thân thiện với môi trường.
Khu công nghiệp Hòa Hiệp 1 thuộc Khu kinh tế Nam Phú Yên. |
Theo đó, 14 nhóm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo được định hướng thu hút vào gồm sản xuất, chế biến thực phẩm; sản xuất đồ uống; sản xuất sản phẩm thuốc lá; sản xuất da và các sản phẩm liên quan; sản xuất giấy và các sản phẩm từ giấy; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu; sản xuất thiết bị điện; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học…
Theo UBND tỉnh Phú Yên, Khu công nghiệp Hòa Hiệp 1 được điều chỉnh quy hoạch phân khu nhằm bố trí sắp xếp các ngành nghề sản xuất, điều chỉnh chức năng từng phân khu cho phù hợp với các Dự án đầu tư đã triển khai, phù hợp với quy chuẩn, tiêu chuẩn hiện hành để tăng hiệu quả sử dụng đất và thuận lợi trong quá trình quản lý.
Ngoài ra, đồ án được phê duyệt làm cơ sở pháp lý để quản lý xây dựng và thu hút đầu tư; đảm bảo sự hài hoà giữa bảo vệ môi trường và phát triển, đồng thời đảm bảo sự phát triển bền vững.
Đồ án quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/2000 Khu công nghiệp Hòa Hiệp được Bộ Xây dựng phê duyệt vào ngày 13/7/1999. Ngày 2/2/2023, UBND tỉnh Phú Yên có quyết định về chủ trương lập Đồ án điều chỉnh Quy hoạch phân khu tỷ lệ 1/2.000 Khu công nghiệp Hòa Hiệp 1; Ban Quản lý Khu kinh tế được giao là đơn vị tổ chức thực hiện lập quy hoạch.
Khu công nghiệp Hòa Hiệp 1 có địa chỉ tại phường Hòa Hiệp Bắc và phường Hòa Hiệp Trung, thị xã Đông Hòa. Đây là 1 trong 2 khu công nghiệp đã đi vào hoạt động thuộc Khu kinh tế Nam Phú Yên (cùng với Khu công nghiệp Hòa Hiệp 2).
Tại thời điểm ngày 14/12/2023, Ban Quản lý Khu kinh tế Phú Yên thông tin, Khu công nghiệp Hòa Hiệp 1 có diện tích 101,5 ha. Trong đó, diện tích đất xây dựng nhà máy là 61,59 ha; diện tích đất chưa cho thuê lại và đang kêu gọi đầu tư là 9,071 ha (lô đất ký hiệu từ A1 đến A8).
Kon Tum chuyển giải ngân vốn đầu tư công năm 2023 của 87 dự án, nhiệm vụ sang năm 2024
HĐND tỉnh Kon Tum vừa ban hành Nghị quyết về việc kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân vốn kế hoạch đầu tư công năm 2023 sang năm 2024 nguồn vốn ngân sách địa phương.
Theo đó, tỉnh Kon Tum kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân vốn kế hoạch đầu tư công năm 2023 sang năm 2024 hơn 45,7 tỷ đồng thuộc 12 Dự án, nhiệm vụ do cấp tỉnh quản lý; kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân vốn kế hoạch đầu tư công năm 2023 sang năm 2024 đối với nguồn vốn đầu tư công ngân sách huyện hơn 34,8 tỷ đồng thuộc ngân sách 9 huyện, thành phố (75 dự án).
Kết thúc quý I/2024, tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công của tỉnh Kon Tum tuy có được cải thiện hơn so với cùng kỳ năm 2023, nhưng cũng chỉ đạt mức trung bình so với cả nước.
Trước thực tế này, ngày 11/4, UBND tỉnh có văn bản yêu cầu các đơn vị, địa phương và chủ đầu tư đề cao trách nhiệm, tập trung chỉ đạo, lãnh đạo, điều hành đẩy nhanh tiến độ phân bổ và giải ngân vốn đầu tư công năm 2024, phấn đấu đạt kết quả cao nhất.
UBND tỉnh Kon Tum yêu cầu các địa phương chưa phân bổ chi tiết kế hoạch đầu tư vốn ngân sách nhà nước năm 2024 cần khẩn trương thực hiện theo đúng quy định, không để tiếp tục chậm trễ.
Việc phân bổ chi tiết kế hoạch vốn phải bảo đảm trọng tâm, trọng điểm, không dàn trải, phù hợp với khả năng thực hiện, giải ngân và đúng các quy định pháp luật về đầu tư công.
Hà Nội đặt mục tiêu hoàn thiện hệ thống đường sắt đô thị vào năm 2035
Ban Quản lý đường sắt đô thị Hà Nội đã có tờ trình về Đề án tổng thể xây dựng đường sắt đô thị Thủ đô, trong đó xác định mục tiêu hoàn chỉnh mạng lưới tại Hà Nội vào năm 2035.
Theo Ban Quản lý đường sắt đô thị Hà Nội, ĐSĐT là một phần quan trọng của hệ thống giao thông ở nhiều thành phố trên thế giới. ĐSĐT là phương thức vận tải quan trọng, cung cấp hệ thống giao thông công cộng chất lượng cao, năng lực vận tải lớn, ổn định, tin cậy, an toàn, thân thiện môi trường. Nhiều quốc gia đã, đang ưu tiên phát triển ĐSĐT để giải quyết các vấn đề về ùn tắc giao thông, tai nạn và giảm thiểu lượng phát thải khí CO2 ra môi trường, mở ra không gian phát triển kinh tế – xã hội.
Thời gian qua, TP. Hà Nội đã tập trung nguồn lực đầu tư, đưa vào sử dụng nhiều công trình giao thông quan trọng, đóng góp rất lớn cho sự phát triển kinh tế – xã hội của Thủ đô. Tuy nhiên, trước những yêu cầu của sự phát triển, tốc độ đô thị hóa, hệ thống giao thông thành phố đang phải đối diện với những áp lực rất lớn do sự gia tăng nhanh chóng của phương tiện giao thông cá nhân, ùn tắc giao thông, ô nhiễm môi trường, lãng phí nguồn lực xã hội… Như vậy, việc phát triển ĐSĐT tại Hà Nội là nhiệm vụ trọng tâm, là tất yếu của giai đoạn phát triển mới.
Mới đây, Ban Quản lý đường sắt đô thị Hà Nội đã có tờ trình về Đề án tổng thể xây dựng đường sắt đô thị Thủ đô. Đề án nhằm tổng kết tình hình triển khai đầu tư hệ thống ĐSĐT thời gian qua, làm cơ sở đề xuất định hướng phát triển, các cơ chế chính sách thí điểm, đặc thù để đầu tư phát triển mạng lưới ĐSĐT TP. Hà Nội. Trong đó xác định mục tiêu hoàn chỉnh mạng lưới ĐSĐT tại TP. Hà Nội vào năm 2035.
Đề án thống nhất nhận thức về vai trò của ĐSĐT, là trục “xương sống” của hệ thống hạ tầng giao thông vận tải của TP. Hà Nội. Phát triển hệ thống ĐSĐT là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho chiến lược phát triển kinh tế – xã hội nhanh và bền vững của thành phố trong thời gian tới. Phát triển ĐSĐT gắn kết với phát triển đô thị, bảo vệ môi trường, thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo động lực phát triển liên kết vùng Thủ đô.
Đồng thời, thống nhất nhận thức và hành động của cả hệ thống chính trị trong việc huy động tối đa các nguồn lực phù hợp để tập trung đầu tư, sớm hoàn thành mạng lưới ĐSĐT hiện đại, đồng bộ, bền vững. Trong đó, ngân sách Nhà nước sẽ giữ vai trò chủ đạo và quyết định để đầu tư toàn bộ hệ thống ĐSĐT giai đoạn đến năm 2035. Xây dựng và thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách nhằm đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng hệ thống ĐSĐT của Thủ đô Hà Nội.
Đề án cũng đặt các mục tiêu cụ thể, đến năm 2025, triển khai tổ chức thi công xây dựng Tuyến số 2 đoạn Nam Thăng Long – Trần Hưng Đạo. Triển khai công tác lập đề xuất chủ trương đầu tư các tuyến ĐSĐT có lộ trình đầu tư trước năm 2030. Hoàn thành xây dựng, trình ban hành nghị quyết về cơ chế, chính sách, đặc thù cho ĐSĐT nhằm đẩy nhanh tiến độ chuẩn bị và thực hiện đầu tư xây dựng đồng loạt.
Đến năm 2030, phấn đấu xây dựng, đưa vào khai thác khoảng 96,8/397,8km (chiếm 24%) các tuyến còn lại đến thời điểm hiện tại của mạng lưới đường sắt đô thị của Thủ đô. Đồng thời, triển khai công tác lập đề xuất chủ trương đầu tư và triển khai thi công xây dựng các tuyến ĐSĐT có lộ trình đầu tư trước năm 2035.
Mục tiêu đến năm 2035, hoàn chỉnh hệ thống ĐSĐT tại TP. Hà Nội (có tính kết nối với vùng Thủ đô).
Đến năm 2045, hoàn thành các tuyến ĐSĐT dự kiến bổ sung thêm theo Quy hoạch chung Thủ đô điều chỉnh. Ngoài ra, đề xuất cơ chế, chính sách “vượt trội”, “đột phá” để đẩy nhanh thủ tục chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư nhằm hoàn chỉnh hệ thống ĐSĐT tại TP. Hà Nội vào năm 2035 theo Kết luận số 49-KL/TW ngày 28/02/2023 của Bộ Chính trị.
Trình Bộ Chính trị chấp thuận và Quốc hội thông qua làm cơ sở thực hiện toàn bộ các tuyến thuộc mạng lưới ĐSĐT của TP. Hà Nội (theo quy hoạch hiện tại, được cập nhật phù hợp với Quy hoạch chung Thủ đô đang được rà soát, điều chỉnh).
Nguồn: https://baodautu.vn/tham-van-ve-cao-toc-cam-lo-lao-bao-13726-ty-dong-tin-hieu-vui-cho-cao-toc-phu-ly-nam-dinh-9400-ty-dong-d214893.html