Bộ Công an đang dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Cư trú.
Bộ Công an cho biết, qua 3 năm triển khai nghiêm túc Nghị định số 62/2021/NĐ-CP đã góp phần mang lại kết quả đáng khích lệ trong thực hiện Luật Cư trú, đặc biệt trong giai đoạn chuyển đổi số hiện nay.
Tuy nhiên, qua thực tiễn thấy rằng, quy định của Nghị định vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế cần được sửa đổi, bổ sung để đáp ứng tình hình thực tiễn, nâng cao hiệu quả, giá trị góp phần quản lý và phát triển kinh tế – xã hội, góp phần giữ gìn an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội của công tác đăng ký, quản lý cư trú.
Thứ nhất, hoàn thiện quy định về trình tự, thủ tục đăng ký cư trú theo hướng đơn giản hóa lược bỏ việc nộp, xuất trình giấy tờ, tài liệu chứng minh chỗ ở hợp pháp, mối quan hệ nhân thân và điều kiện đăng ký cư trú một số trường hợp.
Thứ hai, quy định cụ thể về việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến đối với việc khai báo thông tin về cư trú, điều chỉnh thông tin nơi ở hiện tại cho công dân theo hướng đơn giản hóa.
Thứ ba, hoàn thiện quy định về nơi cư trú, xóa đăng ký cư trú, kết nối, chia sẻ, khai thác, sử dụng và điều chỉnh thông tin về cư trú, bảo đảm thích ứng việc chuyển đổi số, phát huy hiệu quả của Cơ sở dữ liệu về cư trú.
Hiện nay, Việt Nam đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động hội nhập quốc tế, yêu cầu đặt ra là phải hiện đại hóa công tác quản lý cư trú theo hướng ứng dụng thành tựu khoa học, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, phù hợp với xu hướng của các nước trên thế giới, hiện nay, các bộ, ngành, địa phương đang đồng thời tiến hành chuyển đổi số, cải cách thủ tục hành chính, xây dựng hệ thống Cơ sở dữ liệu. Để đảm bảo thống nhất, đồng bộ và ứng dụng tối ưu hóa các hệ thống dữ liệu cần điều chỉnh quy định về Cơ sở dữ liệu về cư trú.
Từ những lý do nêu trên cho thấy, việc xây dựng Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Cư trú (thay thế Nghị định số 62/2021/NĐ-CP ngày 29/6/2021) là rất cần thiết, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra hiện nay và những năm tiếp theo.
Dự thảo Nghị định này quy định chi tiết một số điều của Luật Cư trú về:
– Nơi cư trú của người sinh sống, người làm nghề lưu động trên tàu, thuyền hoặc phương tiện khác có khả năng di chuyển.
– Nơi cư trú của người không có nơi thường trú, nơi tạm trú.
– Các loại giấy tờ, tài liệu chứng minh chỗ ở hợp pháp, giấy tờ, tài liệu chứng minh quan hệ nhân thân.
– Hồ sơ, thủ tục xóa đăng ký thường trú.
– Hồ sơ, thủ tục xóa đăng ký tạm trú.
– Xây dựng, quản lý, sử dụng Cơ sở dữ liệu về cư trú, thông tin trong Cơ sở dữ liệu về cư trú và việc cung cấp, trao đổi thông tin, tài liệu từ Cơ sở dữ liệu về cư trú cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Theo đó, dự thảo Nghị định cũng quy định rõ về nơi cư trú của người sinh sống, người làm nghề lưu động trên tàu, thuyền hoặc phương tiện khác có khả năng di chuyển; nơi cư trú của người không có nơi thường trú, nơi tạm trú. Cùng với đó, dự thảo Nghị định quy định trường hợp công dân đăng ký thường trú vào chỗ ở hợp pháp không phải của mình không phải xuất trình giấy tờ chứng minh chỗ ở hợp pháp khi có ý kiến đồng ý của chủ sở hữu theo điểm a khoản 2 Điều 20 Luật Cư trú thì lấy ý kiến của đại diện chủ sở hữu chỗ ở hợp pháp…
Trường hợp công dân sinh sống trên tàu, thuyền, phương tiện khác qua đêm thì chủ phương tiện phải thực hiện thông báo lưu trú cho người cư trú qua đêm trên phương tiện với cơ quan đăng ký cư trú nơi phương tiện đăng ký hoặc nơi phương tiện thường xuyên đậu, đỗ nếu phương tiện không phải đăng ký hoặc nơi đăng ký không trùng với nơi phương tiện thường xuyên đậu, đỗ…
Đáng chú ý, Điều 7 của dự thảo Nghị định quy định về đăng ký thường trú cho trẻ em mới sinh. Trong đó, nơi thường trú của trẻ em mới sinh là nơi thường trú của cha, mẹ; nếu cha, mẹ có nơi thường trú khác nhau thì nơi thường trú của trẻ em mới sinh là nơi thường trú của cha hoặc mẹ mà trẻ em mới sinh thường xuyên chung sống; trường hợp không xác định được nơi thường xuyên chung sống thì nơi thường trú của trẻ em mới sinh là nơi do cha, mẹ thỏa thuận.
Trong thời hạn tối đa 60 ngày, kể từ ngày trẻ em được đăng ký khai sinh, cha, mẹ hoặc đại diện hộ gia đình, người giám hộ, người nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ em có trách nhiệm làm thủ tục đăng ký thường trú cho trẻ em đó. Trường hợp không đủ điều kiện đăng ký thường trú phải thực hiện đăng ký tạm trú, khai báo thông tin về cư trú cho trẻ.
T.M
Nguồn: https://www.nguoiduatin.vn/de-xuat-quy-dinh-moi-ve-dang-ky-thuong-tru-tam-tru-a662379.html