Khu Di tích Lăng miếu Triệu Tường (làng Gia Miêu, xã Hà Long, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa) cách TP Thanh Hóa khoảng 35 km về phía Bắc. Xưa kia, vùng đất này thuộc tổng Thượng Bạn, huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung, trấn Thanh Hoa. Đây được xem là vùng đất “quý hương”, về sau là nơi an nghỉ của Triệu tổ Tĩnh hoàng đế Nguyễn Kim, bố Nguyễn Hoàng – người mở mang bờ cõi về phương Nam.
Tưởng nhớ công đức tiền nhân
Theo sử sách, năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh (hậu duệ đời thứ 11 của Nguyễn Kim) đã thống nhất hai xứ Đàng trong và Đàng ngoài, lên ngôi hoàng đế, đặt niên hiệu là Gia Long, lấy quốc hiệu là Việt Nam. Trong chuyến tuần thú Bắc Hà, vua Gia Long tìm về đất tổ Gia Miêu yết bái tổ tiên, truy tôn Nguyễn Kim là Triệu tổ Tĩnh hoàng đế. Đồng thời, vua Gia Long cho đắp nền Phương Cơ, dựng lăng Trường Nguyên (lăng Triệu Tường) thờ Triệu tổ ngay dưới chân núi Thiên Tôn.
Với các vua nhà Nguyễn, có lăng (nơi chôn) luôn có miếu kèm theo làm nơi thờ tự. Vì thế, miếu Triệu Tượng sau đó cũng được xây dựng (cách lăng Triệu Tường gần 1 km) ở một cánh đồng bằng phẳng ở làng Gia Miêu.
Sách Niên giám Đông Dương chép “Làng Quý Hương, huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung có tiếng là cái nôi của triều đại đương thời. Các miếu tháp thờ cúng các vị tiên vương được xây dựng ở đây, có tường gạch bao quanh, tường được giữ phòng bằng lũy, làm đúng như một tòa thành nhỏ, đó là Tôn Thanh hay còn gọi là Triệu Tường”.
Khu miếu Triệu Tường có diện tích khoảng 5 ha, có tường thành xây kín, bao quanh là hào nước, cầu gạch bắc qua, lại có hai lớp lũy bao bọc nên được ví như tòa thành nhỏ. Cửa nam có một vọng lâu, cổng tam quan, phía sau là hồ sen hình bán nguyệt.
Miếu được chia làm ba khu vực. Khu chính giữa là Nguyên miếu thờ Triệu tổ Tĩnh hoàng đế Nguyễn Kim và Thái tổ Gia dụ hoàng đế Nguyễn Hoàng. Khu phía đông thờ Trừng quốc công Nguyễn Văn Lựu (thân phụ của Nguyễn Kim) và Lỵ nhân công Nguyễn Hán (con trai Nguyễn Hoàng). Khu phía tây là trại lính và nhà ở của gia nhân các quan trông coi lăng miếu.
Toàn bộ công trình đều nhìn về phương Nam. Hàng năm, gặp tiết ngũ hưởng và các tiết khác theo quy định của triều đình, quan tỉnh Thanh Hóa vâng mệnh hành lễ theo lệ như các miếu ở Kinh thành Huế. Đồng thời, nhiều vua Nhà Nguyễn như Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị, Thành Thái, Khải Định sau khi lên ngôi đã về dâng hương, bái yết tổ tiên.
“Kinh thành Huế” thu nhỏ
Trải qua những biến động của lịch sử, lăng miếu Triệu Tường đã bị san phẳng, chỉ còn dấu tích nền móng. Qua các cuộc khai quật khảo cổ đã cho cái nhìn tổng thể về quy mô, loại hình, kiểu kiến trúc cũng như diện tích xây dựng, tính xác thực của di tích cũng như làm rõ một phần kỹ thuật xây dựng di tích lăng miếu Triệu Tường.
Đó là phần bên ngoài được bao bọc bởi lũy thành, hào nước; bên trong là tường bao xung quanh, được chia thành các khu vực khác nhau và lấy Nguyên Miếu là trung tâm. Mặt bằng kiến trúc cho thấy tính quy chuẩn và tính đăng đối giữa các công trình. Đồng thời, bước đầu so sánh có thể thấy di tích này có nét tương đồng với Thế miếu ở kinh thành Huế. Bởi nếu Thế miếu là nơi thờ các vua và chúa Nguyễn, thì khu lăng miếu Triệu Tường là nơi thờ gốc tổ Nhà Nguyễn tại cố hương, kết hợp với nơi an táng Nguyễn Kim (Triệu Tổ Tĩnh Hoàng đế).
Với những giá trị của di tích, năm 2007, khu lăng miếu Triệu Tường đã được Bộ Văn hóa, Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng Di tích lịch sử quốc gia. Hiện Khu di tích lăng miếu Triệu Tường đã và đang được tôn tạo lại trên cơ sở nền móng cũ, dựa trên kết quả khảo cổ học và ảnh tư liệu từ thời Pháp thuộc còn lại. Từ đó, diện mạo một “cố đô Huế” thu nhỏ đang dần hiện hữu trên vùng đất Gia Miêu.
Theo ông Nguyễn Đình Luận (hậu duệ đời 15 của cụ Nguyễn Công Duẩn), người trông coi lăng miếu Triệu Tường, năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua, đến năm 1803, ông cho xây lăng miếu Triệu Tường để thờ tiên tổ vương triều Nguyễn. “Trải qua thời gian, biến cố của lịch sử nên miếu đã bị hư hỏng, hoang phế. Năm 2007, lăng miếu được công nhận là di tích cấp Quốc gia, đến năm 2009 thực hiện khảo cổ học, đồng thời cho tôn tạo lại các công trình trên các nền móng cũ, với kích thước, chiều cao như ngày xưa. Kiến trúc của các công trình có giá trị đặc biệt về nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc khi nó mang dáng dấp kinh đô Huế xưa”- ông Luận cho hay.
Cũng theo ông Luận, khu di tích lăng miếu Triệu Tường có giá trị rất lớn về mặt lịch sử, bởi nhà Nguyễn có công thống nhất đất nước, đặc biệt là việc mở rộng bờ cõi vào phương Nam và các vùng biển đảo thiêng liêng của tổ quốc. “Vì thế, để xứng tầm với những công lao đó, chúng tôi mong muốn nhà nước quan tâm hơn nữa, sớm triển khai tôn tạo các công trình hoàn chỉnh như xưa để phát huy giá trị lịch sử, phát triển du lịch, giáo dục truyền thống” – ông Luận nói.
Người trông coi lăng miếu Triệu Tường cũng cho biết ngoài khu lăng miếu Triệu Tường, năm 1806 vua Gia Long còn cho xây dựng đình Gia Miêu làm nơi thờ thành hoàng Nguyễn Công Duẩn và những người có công trạng trong dòng tộc. Đình cách lăng miếu khoảng vài trăm mét, kiến trúc bằng gỗ với mặt bằng xây dựng gần 375 m2.
Được biết, hiện khu lăng miếu Triệu Tường và đình Gia Miêu đã được UBND tỉnh Thanh Hóa quyết định cho trùng tu, tôn tạo trên diện tích khoảng 28 ha, với tổng mức đầu tư gần 500 tỉ đồng. Tuy nhiên, hiện nay việc trùng tu, tôn tạo vẫn gián đoạn do thiếu vốn.
“Kinh thành Huế” thu nhỏ ở xứ Thanh
Vùng đất quý hương phát tích triều Nguyễn
Theo sử sách, năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, lập nên triều Mạc. Một số cận thần thân tín của nhà Lê đã bàn bạc, tập hợp hào kiệt bốn phương lánh lên Sầm Châu – vùng Thanh Hóa giáp Lào lập bản doanh phò Lê diệt Mạc, trong số đó có An Thành hầu Nguyễn Kim (hậu duệ đời thứ tư của Bình Ngô khai quốc công thần Nguyễn Công Duẩn, quê ở Gia Miêu).
Nguyễn Kim sau đó tìm được con trai vua Lê Chiêu Tông là Lê Duy Ninh ở Thanh Hóa mang sang Ai Lao lập làm vua, đặt niên hiệu là Nguyên Hòa (vua Lê Trang Tông, tại vị 1533-1548), khởi đầu sự nghiệp trung hưng nhà Lê. Nguyễn Kim được vua tin dùng, phong cho làm Thượng phụ Thái sư hưng quốc công Trưởng nội ngoại sự để phò giúp diệt Mạc, lấy lại cơ nghiệp.
Tuy nhiên, vào năm Ất Tỵ (1545), Nguyễn Kim bị tướng nhà Mạc là Dương Chấp Nhất trá hàng đầu độc giết chết, thọ 78 tuổi. Vua Lê thương tiếc, truy ban tước Chiêu huân Tĩnh công, dùng lễ hậu đưa thi hài về táng ở núi Thiên Tôn.
Hơn 300 năm sau, khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế (1802), thống nhất nước nhà, nhà Nguyễn mới công khai lăng mộ của Nguyễn Kim và vợ ông là bà chánh hậu Nguyễn Thị Mai (Triệu tổ Tĩnh Hoàng hậu) ở vùng Thiên Tôn (thuộc xã Hà Long, huyện Hà Trung ngày nay).