ANTD.VN – Đây là quan điểm của GS.TS. Hoàng Văn Cường, Ủy viên Ủy ban Tài chính ngân sách của Quốc hội tại Tọa đàm “Giải pháp phát triển thị trường vàng an toàn và bền vững” do Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức ngày 25/1.
Nghị định 24 phát sinh nhiều bất cập
Theo GS, TS Hoàng Văn Cường, Nghị định số 24/2012/NĐ-CP (Nghị định 24) về quản lý hoạt động kinh doanh vàng ra đời năm 2012. Thời điểm đó, vàng đang được coi như một phương tiện thanh toán, gần như là tiêu dùng vàng thay cho tiền; hầu như những quan hệ gì giá trị lớn là quy thành vàng. Chúng ta nói rằng, thời kỳ đó là thời kỳ “vàng hóa nền kinh tế”.
Điều này gây nhiều hệ lụy, trong đó điển hình nhất là vấn đề bảo vệ giá trị đồng tiền, khiến người ta không tin tưởng vào giá trị đồng tiền nữa. Cùng với đó, chúng ta không thể quản lý được vấn đề xuất nhập khẩu và ngoại hối, dẫn đến không quản lý được vấn đề tỷ giá…
Trong bối cảnh đó, Chính phủ ban hành Nghị định số 24/2012/NĐ-CP nhằm hạn chế tình trạng “vàng hóa”. Ông Cường cho rằng việc ban hành Nghị định 24 là rất kịp thời và Nghị định này đã phát huy tác dụng khá tốt những năm qua. Gần như chúng ta đã chấn chỉnh được tình trạng dùng vàng làm công cụ giao dịch.
Tuy nhiên, đến nay, kinh tế vĩ mô, về quan hệ tài chính, tiền tệ, quan hệ quốc tế… có rất nhiều thay đổi. Trong khi chúng ta vẫn đang duy trì Nghị định số 24 với những quy định rất chặt chẽ như: Nhà nước là cơ quan độc quyền sản xuất vàng miếng, độc quyền trong quản lý xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng.
Thực tế những năm qua, Nhà nước lấy thương hiệu vàng SJC là thương hiệu vàng quốc gia và hầu như không sản xuất thêm vàng miếng. Trong khi tâm lý của người dân Việt Nam là tích trữ vàng để đảm bảo an toàn, phòng tránh rủi ro, mà vàng SJC lại được xác định là vàng thương hiệu quốc gia thì đương nhiên người dân sẽ chọn vàng tin cậy nhất. Cung không có mà cầu có thực thì đương nhiên sẽ dẫn đến tình trạng mất cân đối cung cầu và giá vàng SJC sẽ tăng.
GS.TS. Hoàng Văn Cường, Ủy viên Ủy ban Tài chính ngân sách của Quốc hội |
Ngoài ra, ông Hoàng Văn Cường cũng cho biết, việc không nhập khẩu vàng nguyên liệu dẫn đến không có sự liên thông với thị trường quốc tế. Có những thời điểm vàng trong nước cao hơn thế giới đến 20 triệu đồng/một lượng, rất phi lý.
Cùng với đó, GS.TS Hoàng Văn Cường cũng chỉ ra thực tế là sự không bình đẳng giữa các loại vàng miếng. Có thể chất lượng cùng là vàng 99,99 như nhau nhưng vàng tên SJC được Nhà nước bảo hộ thì giá rất cao. Các vàng khác không được bảo hộ thì đương nhiên giá sẽ thấp.
Ông cũng cho rằng, việc độc quyền vàng sẽ nguy hại không phải chỉ riêng cho người dân mà còn thiệt hại về mặt xã hội. Khi giá vàng trong nước và giá vàng thế giới chênh lệch nhiều sẽ sinh lợi cho việc nhập lậu vàng, dẫn đến buôn lậu vàng tăng.
“Buôn lậu tăng lên như thế thì rõ ràng không thể nói chúng ta quản lý tốt thị trường vàng được, thất thu thuế, không tạo ra một thị trường cạnh tranh minh bạch, bình đẳng.
Đề xuất bỏ độc quyền, cho phép giao dịch vàng tài khoản
Với các lập luận trên, GS.TS Hoàng Văn Cường cho rằng, cần có sự thay đổi về phương thức quản lý và sửa đổi Nghị định số 24.
“Chẳng hạn, bây giờ không nhất thiết phải độc quyền nhà nước về một thương hiệu vàng. Có lẽ vàng là một hàng hóa khá thông thường, mọi người đều có thể sử dụng và Nhà nước quản lý mặt hàng này rất dễ, không nhất thiết phải độc quyền.
Chúng ta có thể cho nhiều doanh nghiệp tham gia vào quá trình sản xuất vàng miếng để đáp ứng nhu cầu của người dân. Khi cung được tự do, được cạnh tranh bình đẳng thì người dân tiếp cận vàng tích lũy sẽ dễ hơn, sẽ không còn tình trạng khan hiếm nữa” – ông Hoàng Văn Cường đề xuất.
Bên cạnh đó, ông cũng đề xuất cần phải bỏ các công cụ để liên thông giữa thị trường vàng trong nước với quốc tế, chẳng hạn như vấn đề xuất nhập khẩu.
“Tất nhiên, xuất nhập khẩu ở đây phải có phương thức quản lý phù hợp. Không phải cứ duy trì một cơ chế như trước đây là cấp phép, cấp quota theo dạng “xin-cho” mà có thể sử dụng các công cụ tài chính để điều tiết quan hệ xuất nhập khẩu đó. Nhưng cũng phải quản lý để tránh tình trạng ồ ạt dùng ngoại tệ nhập vàng vào cho mục đích khác, làm mất cân đối ngoại tệ, mất khả năng điều hành tỷ giá” – ông nói.
Ngoài ra, vị chuyên gia cũng đề xuất các phương thức giao dịch đa dạng hơn.
“Trong Nghị định 24 cũng có một điều xác định vấn đề kinh doanh vàng trên tài khoản, nhưng toàn bộ nội dung không hề mở ra một chút nào về vấn đề kinh doanh tài khoản nên trong nước chỉ có mua bán vàng vật chất.
Trong khi đó, xu thế giao dịch của thế giới là mở ra phương thức kinh doanh trên sàn kinh doanh thông qua hợp đồng kinh doanh, thông qua các tín chỉ về vàng. Vậy nếu chúng ta mở thêm các hình thức kinh doanh vàng qua tài khoản thì khi đó sẽ không bị lệ thuộc quá vào việc nhập khẩu nhiều hay ít vàng mà người ta có thể sử dụng các công cụ như công cụ phái sinh, sẽ cân đối được ngay cung cầu.
Như vậy chúng ta sẽ điều hành rất linh hoạt và đặc biệt khi đó không còn tình trạng người dân mua vàng về xong để trong nhà tích trữ, làm “chết” một lượng tiền ở đấy.
Khi chúng ta giao dịch vàng trên tài khoản thì người ta không nhất thiết phải mang vàng về nhà, không phải mất công cất trữ, vàng đó được lưu thông ở trên thị trường, sẽ tạo ra sinh lợi, tạo nguồn vốn đưa vào lưu thông, mang lại nhiều tác động tốt cho nền kinh tế cũng như đảm bảo lợi ích của mỗi người dân” – vị chuyên gia kiến nghị.
Ở nhiều nước, Ngân hàng Trung ương không quản lý trực tiếp thị trường vàng
Theo ông Nguyễn Thế Hùng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam, theo thông lệ thế giới, có hai loại vàng là vàng vật chất và vàng phi vật chất.
Ông Nguyễn Thế Hùng |
Vàng vật chất bao gồm vàng thỏi, vàng miếng, đồng tiền vàng, trang sức. Còn vàng phi vật chất bao gồm vàng tài khoản và các chứng chỉ về vàng được giao dịch rất thông dụng trên thị trường.
Đồng thời, ở nhiều nước ngân hàng Trung ương không quản lý trực tiếp về kinh doanh vàng bởi họ quan niệm vàng là một loại hàng hóa thông thường. Tại các nước trong khu vực như Singapore, Thái Lan thì có Bộ Thương mại hoặc Bộ Công thương, Bộ Kinh tế quản lý. Ngân hàng Nhà nước chỉ quản lý về ngoại hối, điều tiết các dòng tiền ngoại tệ.
Các ngân hàng Trung ương ở các nước chỉ có vai trò dự trữ quốc gia, điều phối vàng như là một tài sản để dự trữ quốc gia.
Chính vì thế, vai trò như là ngân hàng Trung ương trong Nghị định 24 phát huy trong thời điểm mà thị trường vàng có những lộn xộn. Còn hiện nay, việc độc quyền SJC sẽ dẫn đến sự chênh lệch rất lớn về giá vàng.
Hơn nữa, hiện giá trị đồng tiền Việt Nam rất ổn định; tỷ giá cũng ổn định. Chính vì thế người dân không dùng vàng để làm phương tiện thanh toán và không có khái niệm “vàng hóa”.
“Vì thế, nếu chúng ta không khuyến khích người dân tích trữ vàng miếng nữa, theo chủ trương của Nhà nước là tập trung vào sản xuất trang sức để tăng giá trị thặng dư, tập trung vốn vào sản xuất và xuất nhập khẩu, thì phải xem xét lại cách thức quản lý thị trường vàng hiện nay.
Nếu chúng ta quan niệm giống như các nước trên thế giới, vàng là một loại hàng hóa thì Ngân hàng Nhà nước không quản lý trực tiếp thị trường vàng nữa” – đại diện Hiệp hội Kinh doanh vàng nêu quan điểm.