Phát biểu tại buổi làm việc, Thứ trưởng Bộ TN&MT Trần Quý Kiên cho biết, thời gian qua, Bộ TN&MT và Bộ KH&CN đã có sự phối hợp chặt chẽ, khăng khít kể từ khi thành lập. Các lãnh đạo, cán bộ của các đơn vị trực thuộc hai Bộ luôn có sự phối hợp, hỗ trợ để cùng nhau xây dựng và phát triển đất nước.
Đối với công tác KH&CN, Thứ trưởng Trần Quý Kiên cho rằng, vai trò của khoa học và công nghệ ngày càng quan trọng nhất là trong quá trình phát triển đất nước hiện nay. Với xu thế của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, ứng dụng công nghệ thông tin vào mọi lĩnh vực điều hành thì các lĩnh vực của ngành TN&MT càng phải thay đổi để theo kịp với thời đại mới. Do vậy, Bộ TN&MT luôn mong muốn có sự đồng hành từ Bộ KH&CN với những ý kiến đóng góp, những giải pháp có tính đổi mới để ngành TN&MT có thể vận dụng, tiếp thu được những thành tựu khoa học đưa ngành phát triển tiên tiến, hiện đại hơn và đáp ứng được với nhu cầu thực tiễn hiện nay.
Đồng quan điểm với Thứ trưởng Bộ TN&MT Trần Quý Kiên, phát biểu tại buổi làm việc, Thứ trưởng Bộ KH&CN Trần Hồng Thái đánh giá cao sự quan tâm, chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ TN&MT Đặng Quốc Khánh cũng như các lãnh đạo Bộ TN&MT tới công tác nghiên cứu KH&CN trong các lĩnh vực của ngành TN&MT.
Trong thời gian tới, để đáp ứng được nhu cầu thực tiễn đặt ra, Thứ trưởng Trần Hồng Thái đề nghị hai bên cần phải chỉ ra những vấn đề đang vướng mắc, những nhu cầu cấp thiết hiện nay để lãnh đạo hai Bộ có thể chỉ đạo và định hướng cho các đơn vị hai bên cùng nhau phối hợp, làm sao để ứng dụng hiệu quả KH&CN tới 9 lĩnh vực quản lý của ngành TN&MT và đạt được những kết quả tốt đẹp góp phần phát triển bền vững đất nước.
Báo cáo tại cuộc họp, ông Nguyễn Xuân Hải – Vụ trưởng Vụ KH&CN, Bộ TN&MT cho biết, thời gian qua, được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của lãnh đạo Bộ TN&MT và lãnh đạo Bộ KH&CN, công tác nghiên cứu phát triển KH&CN ngành TN&MT được tổ chức triển khai đồng bộ và đạt nhiều kết quả quan trọng, tiêu biểu các kết quả hoạt động KH&CN trong các lĩnh vực quản lý của Bộ đã hình thành hệ thống cơ sở lý luận khoa học phục vụ cho việc xây dựng và ban hành các dự án luật, các văn bản hướng dẫn thi hành luật góp phần hoàn chỉnh hệ thống chính sách, pháp luật trong lĩnh vực TN&MT.
Cùng với đó, công tác nghiên cứu KH&CN đã góp phần định hướng cho công tác xây dựng chiến lược, chính sách, quy hoạch quốc gia về TN&MT như: Đề xuất giải pháp thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai ở Việt Nam; Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2040; các định hướng chính sách và quy định pháp luật để thành lập và quản lý các khu bảo tồn cộng đồng và tư nhân ở Việt Nam; đánh giá tác động môi trường đối với các dự án đầu tư và kiểm soát, giám sát môi trường các cơ sở sản xuất, kinh doanh đang hoạt động;
Bên cạnh đó, góp phần nâng cao năng lực và chất lượng công tác điều tra, đánh giá hiện trạng và tiềm năng tài nguyên thiên nhiên, làm luận cứ cho quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, khai thác khoáng sản, sử dụng tài nguyên nước và bảo vệ môi trường, khí tượng thủy văn, biến đổi khí hậu, biển và hải đảo, đo đạc và bản đồ, viễn thám phù hợp với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Mặt khác, ngành TN&MT cũng đã chủ động triển khai các hoạt động nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn để phòng ngừa, ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống như: Khí tượng thủy văn và Biến đổi khí hậu phục vụ công tác phòng chống thiên tai (xâm nhập mặn, hạn hán, lũ lụt, trượt lở đất đá, sạt lở bờ sông bờ biển…); An ninh nguồn nước; đánh giá hiện môi trường phóng xạ trên đất liền và trên biển; ứng phó sự cố môi trường; đánh giá tiềm năng các nguồn năng lượng tái tạo; rác thải nhựa; sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên hướng tới nền kinh tế tuần hoàn giảm phát thải khí nhà kính…
Mặc dù đã đạt được những thành tựu nhất định, nhưng ông Nguyễn Xuân Hải cũng thẳng thắn nhìn nhận rằng, hoạt động KH&CN của Bộ TN&MT vẫn còn có những hạn chế; phạm vi hoạt động khoa học công nghệ chưa được triển khai mở rộng đến các địa phương; trình độ KH&CN một số lĩnh vực còn có khoảng cách khá xa so với các nước tiên tiến thế giới,…
Trong giai đoạn tới, ông Nguyễn Xuân Hải cũng cho biết, với mục tiêu phát triển KH&CN hiện đại, góp phần nâng cao vị thế quản lý nhà nước và điều tra cơ bản về TN&MT thuộc nhóm dẫn đầu trong khu vực; đảm bảo sử dụng hợp lý, hiệu quả tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh đất nước, hoạt động KH&CN của Bộ TN&MT sẽ tập trung nghiên cứu phục vụ xây dựng, hoàn thiện pháp luật, cơ chế chính sách, chiến lược phát triển, quy hoạch quốc gia, quy hoạch ngành TN&MT, các lĩnh vực chuyên ngành về TN&MT; Đẩy mạnh nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng nhằm tiếp thu, nắm bắt, làm chủ công nghệ lõi, công nghệ nguồn nhằm nâng cao chất lượng công tác quản lý nhà nước và điều tra cơ bản về TN&MT, phục vụ phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước.
Theo đó, Bộ sẽ tập trung đẩy mạnh ứng dụng các công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công nghệ số để thực hiện chiến lược quốc gia về kinh tế số và xã hội số trong lĩnh vực TN&MT; ứng dụng công nghệ dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo trong công tác thông tin, dữ liệu; xây dựng hệ thống tương tác giữa người dùng và thông tin, dữ liệu TN&MT trên các nền tảng công nghệ hiện đại; đẩy mạnh nghiên cứu và phát triển có trọng tâm, trọng điểm các hướng công nghệ ưu tiên nhằm nâng cao trình độ, năng lực công nghệ quản lý, điều tra cơ bản, quan trắc, giám sát về TN&MT; tăng cường đào tạo, nâng cao năng lực tham gia vào các hoạt động đổi mới sáng tạo trong các tổ chức khoa học và công nghệ trong nước, khu vực và thế giới;…
Lãnh đạo các đơn vị trực thuộc 2 Bộ phát biểu
Tại buổi làm việc, bên cạnh việc ghi nhận những kết quả đạt được của sự phối hợp giữa hai Bộ trong công tác KH&CN thời gian qua, đại diện lãnh đạo các đơn vị của hai Bộ cũng đóng góp nhiều ý kiến, trao đổi, thảo luận, giải đáp về một số nội dung còn vướng mắc để hướng tới mục tiêu xây dựng công tác khoa học và công nghệ các lĩnh vực của ngành TN&MT ngày càng hoàn thiện hơn, hiệu quả hơn nữa để phục vụ xây dựng và phát triển đất nước.
Sau khi lãnh đạo các đơn vị trực thuộc phát biểu ý kiến, Thứ trưởng Bộ TN&MT Trần Quý Kiên và Thứ trưởng Bộ KH&CN Trần Hồng Thái đánh giá cao buổi làm việc trên tinh thần xây dựng, cùng nhau đánh giá và nhận diện đúng các vấn đề để đưa ra những định hướng sắp tới trong công tác phối hợp giữa hai Bộ để có thể đưa ra được những sản phẩm khoa học, công nghệ phục vụ và đáp ứng được với nhu cầu thực tiễn của các lĩnh vực TN&MT.
Về phía Bộ KH&CN, Thứ trưởng Trần Hồng Thái đề nghị, thời gian tới các đơn vị của 2 Bộ cần rà soát, điều chỉnh nội dung khung các chương trình để bảo đảm tính khả thi trong quá trình triển khai, phù hợp với năng lực nghiên cứu và tình hình thực tiễn của Bộ TN&MT. Cùng với đó, hai Bộ cần tăng cường phối hợp trao đổi thông tin, liên thông các cơ sở dữ liệu khoa học và công nghệ quốc gia để thúc đẩy việc ứng dụng và phát triển khoa học và công nghệ trong ngành TN&MT. Đồng thời, tiếp tục phối hợp về các hoạt động hợp tác trong nước và ngoài nước về khoa học và công nghệ nhằm hỗ trợ các chuyên gia, nhà nghiên cứu, nhà khoa học của các Viện, Trường của Bộ TN&MT tiếp cận, chuyển giao, nghiên cứu, ứng dụng các sản phẩm khoa học và công nghệ từ nước ngoài cho lĩnh vực nghiên cứu của mình.
Kết thúc buổi làm việc, Thứ trưởng Trần Quý Kiên trân trọng cảm ơn sự chỉ đạo sát sao của Thứ trưởng Bộ KH&CN Trần Hồng Thái và mong muốn thời gian tới tiếp tục nhận được sự quan tâm, phối hợp kịp thời, hiệu quả, toàn diện từ lãnh đạo Bộ KH&CN để đưa công tác nghiên cứu KH&CN ngành TN&MT ngày càng hiệu quả, thiết thực góp phần quản lý, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Trước mắt, Thứ trưởng Trần Quý Kiên cũng giao Vụ KH&CN, Bộ TN&MT là đầu mối phối hợp với các đơn vị liên quan giữa 2 Bộ xây dựng khung chương trình phối hợp triển khai hiệu quả các nhiệm vụ trọng tâm và định hướng phối hợp giữa hai Bộ trong thời gian tới.