Khai thác, sử dụng tài nguyên nước lưu vực sông Mê Công tiếp tục diễn biến phức tạp
Phát biểu tham luận tại Hội nghị tổng kết công tác năm 2023, phương hướng, nhiệm vụ năm 2024 của 4 đơn vị trong lĩnh vực tài nguyên nước, bà Nguyễn Hồng Phượng, Phó Chánh Văn phòng Thường trực Ủy ban sông Mê Công Việt Nam cho biết, với gần 95% dòng chảy sông Mê Công đến từ nước ngoài, nguồn tài nguyên nước ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long (khu vực được xem là vựa lúa số 1 Việt Nam) dễ bị tổn thương và rất nhạy cảm trước biến động gây ra từ các hoạt động phát triển, đặc biệt là phát triển thủy điện ở khu vực thượng lưu sông Mê Công.
Hiện nay, tình hình khai thác, sử dụng tài nguyên nước lưu vực sông Mê Công tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khi các quốc gia thượng nguồn đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án thủy điện, dự án thủy lợi để phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội. Các hoạt động đó khiến Việt Nam phải chứng kiến sự biến động bất thường của chế độ dòng chảy, suy giảm nhanh chóng lượng phù sa, cát, nguồn dinh dưỡng về vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Thực tế những năm gần đây, các biến động trên ngày càng khó lường với tần suất lớn đã gây ra nhiều tác động bất lợi đối với Đồng bằng sông Cửu Long như: Các diễn biến cực đoan của lũ và hạn; gia tăng xâm nhập mặn, suy giảm môi trường sinh thái và nguồn lợi thủy sinh, thủy sản; gia tăng hiện tượng sạt lở lòng bờ sông, bờ biển, ảnh hưởng nghiêm trọng đến các hoạt động kinh tế liên quan đến tài nguyên nước và đe dọa đời sống của hàng triệu người dân (đa số là người dân nghèo, phụ thuộc vào nguồn tài nguyên nước và các loại tài nguyên có liên quan của sông Mê Công).
Bên cạnh đó, theo bà Nguyễn Hồng Phượng, dữ liệu thống kê từ năm 2010 đến nay cũng cho thấy lượng mưa trung bình trong mùa khô đã suy giảm trung bình từ 10-30%, từ đó làm suy giảm dòng chảy mùa khô từ 5-10%. Cá biệt có những năm ở Đồng bằng sông Cửu Long diễn ra tình trạng hạn hán nghiêm trọng như năm 2016, 2020; kết hợp với sự gia tăng mực nước biển đã khiến mức độ xâm nhập mặn diễn ra gay gắt, mặn xâm nhập vào sâu trong sông 20-25km so với trung bình nhiều năm.
Đặc biệt, chỉ tính riêng đợt hạn mặn năm 2015-2016, ước tính thiệt hại cho toàn vùng Đồng bằng sông Cửu Long lên đến khoảng 5.500 tỷ đồng.
Nhận định thêm về tình hình hạn hán, xâm nhập mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long trong thời gian tới, Giám đốc Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Quốc gia Mai Văn Khiêm cũng đưa ra cảnh báo từ tháng 1-2/2024, hiện tượng El Nino sẽ tiếp tục duy trì với xác suất trên 95%. Sau đó, xác suất của hiện tượng El Nino giảm xuống mức 60-85% vào thời kỳ tháng 3-5/2024.
Do vậy, theo ông Mai Văn Khiêm, trong các tháng mùa khô năm 2024, khu vực Đồng bằng sông Cửu Long có khả năng sẽ xảy ra hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn.
“Nếu xâm nhập mặn kéo dài với độ mặn cao, một số vùng dọc theo sông Tiền, sông Hậu thuộc Vĩnh Long, Cần Thơ, Bến Tre và Tiền Giang có thể bị hạn mặn cục bộ cho các trà lúa và vườn cây ăn trái,” ông Mai Văn Khiêm lưu ý và khuyến cáo người dân cần có kế hoạch ứng phó, chủ động trước xâm nhập mặn.
Xây dựng chính sách khuyến khích đầu tư, sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả
Trước những dự báo trên, Giám đốc Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Quốc gia Mai Văn Khiêm cho rằng các địa phương ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long cần phải xây dựng kế hoạch, giải pháp cụ thể để ứng phó với tình hình xâm nhập mặn sớm và sâu hơn, nhằm đảm bảo đủ lượng nước cho sản xuất lúa vụ Đông Xuân 2023-2024, hạn chế thấp nhất thiệt hại do hạn hán, xâm nhập mặn gây ra.
Về phía Bộ Tài nguyên và Môi trường, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ cũng đã yêu cầu cơ quan khí tượng thủy văn và các đơn vị liên quan tăng cường tần suất bản tin chuyên đề về hiện tượng El Nino, dự báo lượng mưa và nguồn nước trên các lưu vực sông; cung cấp kịp thời thông tin dự báo, cảnh báo nguồn nước phục các bộ, ngành, địa phương xây dựng kế hoạch ứng phó phù hợp.
Trong khi đó, bà Nguyễn Hồng Phượng, Phó Chánh Văn phòng Thường trực Ủy ban sông Mê Công Việt Nam cho rằng, cần phải có giải pháp tổng thể để đảm bảo an ninh nguồn nước cho vùng vựa lúa số 1 của cả nước.
Theo đó, để góp phần giải quyết các thách thức về an ninh nguồn nước trong lưu vực sông Mê Công nói chung và khu vực Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng, bà Phượng cho rằng, Việt Nam cần xây dựng các chính sách khuyến khích đầu tư, sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả; cùng với các giải pháp bảo vệ nguồn nước, phát triển nguồn nước; xây dựng và ban hành quy trình vận hành hệ thống cơ sở hạ tầng thủy lợi phục vụ đa mục tiêu.
Bên cạnh đó, các địa phương cần tăng cường năng lực, hiệu quả hoạt động của tổ chức lưu vực sông, giải quyết hiệu quả các vấn đề liên tỉnh, liên ngành, liên vùng, liên quốc gia trong quản lý, khai thác sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước.
Riêng với khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, các địa phương cần chủ động về kế hoạch ứng phó khi có dự báo, cảnh báo biến đổi nguồn nước từ thượng nguồn về tới đồng bằng; cũng như kế hoạch về mùa vụ, cơ cấu cây trồng; kế hoạch trữ nước, duy tu bảo dưỡng và nâng cấp công trình cấp nước, điều tiết nước; chủ động trong phối hợp, điều phối, đảm bảo hài hòa lợi ích; tăng cường nâng cao nhận thức về sử dụng nước hiệu quả, tiết kiệm cho người dân.
“Việt Nam cũng cần nâng cao năng lực cảnh báo sớm về tình hình nguồn nước về Đồng bằng sông Cửu Long và công tác tuyên truyền, phổ biến tới cộng đồng, người dân. Việc này cần làm một cách hiệu quả và kịp thời.” -bà Phượng khuyến nghị.
Trong hợp tác quốc tế, bà Nguyễn Hồng Phượng đề xuất, Việt Nam cần tiếp tục phối hợp với các quốc gia thành viên Ủy hội sông Mê Công quốc tế thúc đẩy thực hiện hiệu quả Hiệp định Mê Công nhằm quản lý, khai thác sử dụng nguồn tài nguyên nước sông Mê Công một cách bền vững, công bằng, hợp lý; tăng cường hợp tác với các quốc gia trên lưu vực thông qua các kênh hợp tác song phương và đa phương, đặc biệt là cơ chế hợp tác Ủy hội sông Mê Công quốc tế và Hợp tác Mê Công – Lan Thương.
Đặc biệt, thông qua các cơ chế hợp tác đó, Việt Nam cũng cần tiếp tục thúc đẩy công tác chia sẻ thông tin, số liệu, nâng cấp công cụ phân tích đánh giá, công cụ dự báo, tăng cường năng lực phục vụ cho các hoạt động nghiên cứu, giám sát; thực hiện hiệu quả các quy chế, thủ tục sử dụng nước và chiến lược phát triển lưu vực, quy hoạch vận hành chung giữa các quốc gia ven sông.