Môi trường internet năng động với lượng người dùng đứng thứ 12 thế giới và thứ 6 khu vực là một trong những ví dụ về thành tựu bảo đảm tự do thông tin, tự do ngôn luận, báo chí ở Việt Nam.
Bước vào kỉ nguyên số, trong sự phát triển với tốc độ chóng mặt của môi trường thông tin và không gian mạng, Việt Nam ngày càng nỗ lực trong đảm bảo các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và thông tin cho người dân trong nhiều lĩnh vực.
Quốc gia có lượng người dùng internet cao thứ 12 thế giới
Sau 25 năm chính thức kết nối với Internet toàn cầu (từ ngày 19/11/1997), Việt Nam đã và đang tận dụng tối đa tính năng ưu việt của Internet trong xây dựng, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế sâu rộng trên mọi lĩnh vực xã hội.
Kể từ khi Luật An ninh mạng năm 2018 có hiệu lực, số lượng người sử dụng mạng xã hội tiếp tục tăng (riêng Facebook, Google tăng hơn 3 triệu tài khoản). Tính đến tháng 9/2022, Việt Nam có hơn 72,1 triệu người sử dụng Internet (chiếm 73,2% dân số); 72 triệu người sử dụng mạng xã hội, xếp thứ 13 thế giới về số lượng người dùng; số lượng thuê bao di động được đăng ký lên đến 154.4.
Đến cuối năm 2022, sóng di động đã phủ hầu khắp cả nước với độ bao phủ tới 99,85% dân số; trong đó vùng phủ 3G, 4G phục vụ trên 98% dân số và đã hình thành xa lộ kết nối toàn cầu. Tỷ lệ người sử dụng điện thoại di động đến năm 2021 đạt 86,91%111.
Tính tới tháng 9/2022, số lượng người dùng Internet tại Việt Nam là 72,1 triệu người, chiếm 73,2% dân số cả nước, cao hơn gấp đôi so với 30,8 triệu người năm 2013. Với những con số này, Việt Nam là quốc gia có lượng người dùng Internet cao thứ 12 trên toàn thế giới và đứng thứ 6 trong tổng số 35 quốc gia/vùng lãnh thổ khu vực châu Á.
Khoảng 94% người dùng Việt Nam sử dụng Internet thường xuyên với thời gian sử dụng trung bình lên tới 7 tiếng mỗi ngày. Cơ sở hạ tầng, tốc độ truy cập Internet ở Việt Nam tăng trưởng hàng năm. Người dân có thể tự do chia sẻ, bày tỏ thông tin, quan điểm cá nhân thông qua Internet, nhất là qua các mạng xã hội.
Theo xếp hạng Chỉ số an toàn, an ninh mạng toàn cầu năm 2020 do Tổ chức Liên minh viễn thông quốc tế (ITU), Việt Nam đã có bứt phá mạnh mẽ, tăng 25 bậc trong vòng 2 năm, lên vị trí 25 trên tổng số 194 quốc gia và vẫn tiếp tục nỗ lực để duy trì, cải thiện vị trí xếp hạng này trong dài hạn.
Đầu tư cho quyền tiếp cận thông tin
Luật Tiếp cận thông tin 2016 quy định nguyên tắc, trình tự, thủ tục thực hiện việc tiếp cận thông tin; trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân.
Trong khuôn khổ 3 chương trình mục tiêu quốc gia về Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, Xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025 và Phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, Nhà nước dành ngân sách nhất định cho hợp phần giảm nghèo về thông tin, giúp thu hẹp khoảng cách thụ hưởng thông tin giữa các vùng miền trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
Trong đại dịch COVID-19, nhiều chính sách hỗ trợ, miễn, giảm giá cước cho các Bộ ngành (Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo…), doanh nghiệp, người dân cùng toàn xã hội đã được triển khai như: tăng dung lượng băng thông và dung lượng dữ liệu đế người dân học tập và làm việc từ xa hoặc tại các điểm cách ly; ưu đãi cho các lực lượng tham gia chống dịch ở tuyến đầu, giảm giá một số gói dịch vụ; phủ sóng 100% các vùng lõm chưa có kết nối Internet di động tại các địa phương thực hiện giãn cách và trên toàn quốc với tổng kinh phí lên tới gần 3.000 tỷ đồng; miễn phí 4GB/ngày cho 1 triệu học sinh, sinh viên thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo khi được tặng máy tính trong thời gian 3 tháng để học tập trực tuyến…
Báo chí phát triển đa dạng
Luật Báo chí năm 2016 quy định rõ quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân và trách nhiệm của Nhà nước, các cơ quan báo chí đối với quyền tự do báo chí và quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 09/2017/NĐ-CP ngày 09/02/2017 quy định chi tiết việc phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí của các cơ quan hành chính nhà nước.
Sự phát triển nhanh chóng, đa dạng về loại hình, phong phú về nội dung của các phương tiện thông tin đại chúng trong thời gian qua là minh chứng sinh động về tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin ở Việt Nam.
Tính đến tháng 12 năm 2022, Việt Nam có 816 cơ quan báo chí trong đó: 230 báo, tạp chí thực hiện hai loại hình báo chí in và báo chí điện tử, 557 báo và tạp chí chỉ thực hiện loại hình in, 29 báo và tạp chí chỉ thực hiện loại hình điện tử. Khoảng 18.000 người được cấp thẻ nhà báo.Việt Nam hiện có một hãng thông tấn quốc gia; 72 cơ quan hoạt động phát thanh, truyền hình.
72 cơ quan phát thanh truyền hình này hiện vận hành 79 kênh phát thanh và 198 kênh truyền hình (so với năm 2018 là 78 kênh phát thanh và 179 kênh truyền hình); 1.883 trang tin điện tử tổng hợp (so với 1.607 trang năm 2018), 911 mạng xã hội (so với 420 mạng xã hội năm 2018) đã đăng ký hoạt động. Ở cấp cơ sở, hiện cả nước có 666 cơ sở truyền thanh – truyền hình cấp huyện và 9.792 đài truyền thanh cấp xã.Tính đến tháng 12 năm 2022, Việt Nam có 57 nhà xuất bản.
Tổng số xuất bản phẩm lưu chiểu: 33.707 xuất bản phẩm (tăng 15,2% so với cùng kỳ năm 2021).Tính đến 20/11/2022, đã cấp xác nhận hoạt động xuất bản, phát hành xuất bản phẩm điện tử cho 17/57 nhà xuất bản (chiếm 29,8% – vượt mục tiêu đề ra 4,8%); hình thành nền tảng xuất bản điện tử chung cho 12/19 nhà xuất bản.