Về các nội dung của Nghị quyết, có nhiều ý kiến nhất trí với sự cần thiết ban hành Nghị quyết, tuy nhiên, vẫn có ý kiến không tán thành do việc ban hành Nghị quyết thí điểm, đề nghị rà soát các luật có liên quan để sửa đổi một cách tổng thể, toàn diện. Về vấn đề này, thay mặt Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Nghị quyết thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù về đầu tư xây dựng công trình giao thông đường bộ.
Theo Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết, thời gian vừa qua kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ đã được Nhà nước quan tâm dành nguồn lực lớn để đầu tư, nhưng vì nhiều lý do khác nhau, việc thực hiện vẫn còn hạn chế chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội, trong khi việc đầu tư xây dựng đồng bộ, hiện đại hệ thống kết cấu hạ tầng là một trong các đột phá chiến lược.
Để phấn đấu thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm giai đoạn 2021 – 2025 của Quốc hội, việc ưu tiên nguồn lực, có các chính sách đặc thù để đẩy nhanh việc xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đường bộ hiện đại là rất cần thiết. Đồng thời, một số chính sách thí điểm tại dự thảo Nghị quyết được kế thừa từ các chính sách đã được Quốc hội cho phép áp dụng thời gian qua và đạt được những kết quả tích cực.
Bên cạnh đó, việc sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật cần nhiều thời gian để đánh giá, tổng kết kỹ lưỡng, do đó trước nhu cầu cần thiết, cấp bách hiện nay thì việc Chính phủ đề xuất thí điểm các chính sách đặc thù về đầu tư xây dựng công trình đường bộ là hợp lý. Tuy nhiên, đề nghị Chính phủ trên cơ sở triển khai thực hiện Nghị quyết thí điểm này nếu được Quốc hội thông qua, tiến hành đánh giá, tổng kết các quy định pháp luật có liên quan để đề xuất sửa đổi.
Về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng và tiêu chí lựa chọn dự án thí điểm (Điều 1), có ý kiến đề nghị rà soát phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng của dự thảo Nghị quyết. Nhiều ý kiến đề nghị rà soát, bổ sung, hoàn thiện các nguyên tắc, tiêu chí lựa chọn dự án thí điểm. Về vấn đề này, UBTVQH xin báo cáo: Chính phủ đã đưa ra các tiêu chí để lựa chọn dự án thí điểm và trên cơ sở đề xuất của các địa phương đã rà soát, trình Quốc hội dự thảo Nghị quyết và danh mục dự án.
Bên cạnh đó, để việc thực hiện thí điểm có hiệu quả, rõ địa chỉ, phạm vi, thời gian áp dụng, tránh dàn trải đúng với tính chất thí điểm, xin kiến nghị Quốc hội xem xét, quyết định việc thí điểm chỉ áp dụng đối với các dự án Chính phủ trình và không bổ sung danh mục dự án thí điểm sau khi Quốc hội biểu quyết thông qua, Chính phủ chịu trách nhiệm toàn diện về danh mục dự án đề xuất với Quốc hội.
Do đó, xin không quy định nguyên tắc, tiêu chí lựa chọn dự án tại dự thảo Nghị quyết. Đồng thời, UBTVQH xin bỏ quy định về đối tượng áp dụng tại dự thảo Nghị quyết, vì quy định tại Điều 1 về phạm vi điều chỉnh quy định chính sách đặc thù về đầu tư xây dựng công trình đường bộ đối với các dự án nêu tại Phụ lục kèm theo Nghị quyết này đã bao hàm đối tượng, địa chỉ cụ thể áp dụng các dự án.
Nhiều ý kiến đề nghị bổ sung các nguyên tắc, tiêu chí về cam kết bảo đảm tiến độ, trách nhiệm phối hợp của các địa phương trong việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của các dự án; năng lực quản lý dự án của địa phương. Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế cho biết, theo quy định của pháp luật hiện hành, công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư để triển khai dự án thuộc trách nhiệm của các địa phương.
Bên cạnh đó, công tác này liên quan đến nhiều cơ quan quản lý nhà nước, chủ đầu tư, đối tượng bồi thường, tái định cư… và đã được quy định cụ thể tại pháp luật có liên quan. Hiện nay pháp luật về xây dựng, pháp luật về đầu tư công không quy định về tiêu chí năng lực, kinh nghiệm quản lý dự án của cơ quan chủ quản. Theo pháp luật về xây dựng, các dự án sẽ được giao cơ quan, tổ chức triển khai thực hiện dự án. Do đó, tiến độ, chất lượng của dự án có bảo đảm yêu cầu hay không phụ thuộc rất lớn vào năng lực của các cơ quan, tổ chức này.
Vì vậy, tại điểm b khoản 4 Điều 7 dự thảo Nghị quyết đã quy định Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được giao làm cơ quan chủ quản chịu trách nhiệm bảo đảm năng lực, kinh nghiệm của các cơ quan, tổ chức được giao triển khai thực hiện dự án theo pháp luật về xây dựng.
Báo cáo, giải trình về tỷ lệ vốn nhà nước tham gia dự án đầu tư theo phương thức đối tác công tư (Điều 2), Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh nêu rõ, Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị đặc biệt nên việc triển khai thực hiện dự án đều có chi phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư lớn, do đó việc cho phép Hội đồng nhân dân thành phố được xem xét, quyết định việc tăng tỷ lệ vốn nhà nước tham gia dự án PPP nhưng không quá 70% tổng mức đầu tư của dự án là phù hợp. Tuy nhiên, đối với các dự án đi qua địa bàn kinh tế – xã hội khó khăn, chi phí giải phóng mặt bằng có thể không cao nhưng do lưu lượng xe thấp, nếu áp dụng theo cơ chế đặc thù cho thành phố Hồ Chí Minh thì sẽ không bảo đảm được phương án tài chính cho dự án. Tuy nhiên, tại Phụ lục kèm theo Nghị quyết đã quy định rõ mức tối đa của từng Dự án. Do đó, UBTVQH xin giữ như dự thảo Nghị quyết.
Có ý kiến đề nghị tăng tỷ lệ vốn nhà nước tham gia dự án không quá 70% hoặc 80% tổng mức đầu tư để bảo đảm phương án tài chính cho các khu vực khó khăn, lưu lượng xe thấp cần thúc đẩy phát triển hạ tầng giao thông đường bộ. UBTVQH xin tiếp thu, theo báo cáo của Chính phủ các dự án PPP đề xuất thí điểm đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư. Tại Điều 2 dự thảo Nghị quyết đã hoàn thiện theo hướng cho phép tỷ lệ vốn nhà nước tham gia dự án PPP được vượt quá 50% tổng mức đầu tư đối với 02 dự án theo quy định tại Phụ lục I kèm theo Nghị quyết này.
Về cơ quan chủ quản đầu tư dự án đường bộ (Điều 3), Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết, theo quy định của Luật Xây dựng, Bộ Giao thông vận tải sẽ thực hiện thẩm định thiết kế cơ sở, tổng mức đầu tư các dự án giao cho địa phương làm cơ quan chủ quản. Đồng thời, pháp luật về xây dựng đã quy định tiêu chí về năng lực, kinh nghiệm của các cơ quan, tổ chức thực hiện dự án. Tiếp thu ý kiến đại biểu, dự thảo Nghị quyết đã quy định tại điểm b khoản 4 Điều 7 giao Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được giao làm cơ quan chủ quản chịu trách nhiệm bảo đảm năng lực, kinh nghiệm của cơ quan, tổ chức được giao triển khai thực hiện dự án theo pháp luật về xây dựng.
Giải trình, tiếp thu ý kiến đại biểu về khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường (Điều 4), có ý kiến đề nghị cân nhắc phạm vi và tiêu chí áp dụng đối với các dự án được áp dụng chính sách về khai thác mỏ khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường tránh việc áp dụng tràn lan làm mất đi ý nghĩa của việc thí điểm. UBTVQH xin tiếp thu, quy định chỉ cho phép áp dụng chính sách này đối với các dự án quốc lộ, cao tốc tại Phụ lục IV kèm theo dự thảo Nghị quyết. Có ý kiến đề nghị cân nhắc việc bổ sung đối tượng nhà đầu tư được áp dụng chính sách khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường. UBTVQH xin tiếp thu và chỉnh lý không quy định đối tượng là nhà đầu tư tại Điều 4 dự thảo Nghị quyết.
Về dự án sử dụng nguồn dự phòng chung của Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 – 2025 tương ứng với nguồn tăng thu ngân sách trung ương năm 2022, UBTVQH xin tiếp thu, chỉnh lý quy định tại điểm a khoản 1 Điều 5 như sau: “nguồn vốn và số vốn còn thiếu so với dự kiến tổng mức đầu tư của dự án được bố trí bằng nguồn vốn hợp pháp khác”; chỉnh lý quy định tại khoản 2 Điều 5 như sau: “phần vốn nhà nước tham gia tăng thêm trong tổng mức đầu tư của Dự án được bố trí bằng nguồn vốn hợp pháp khác”. Tại khoản 7 Điều 7 quy định “Chính phủ chịu trách nhiệm về nguồn vốn và số vốn còn thiếu trong tổng mức đầu tư của dự án quy định tại điểm a khoản 1 và khoản 2 Điều 5 của Nghị quyết này; tổng hợp, báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất sau khi các dự án được phê duyệt chủ trương đầu tư”.
Đồng thời, đề nghị Chính phủ báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định tại kỳ họp sau về số vốn cần bố trí trong Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2026 – 2030 đối với chủ trương đầu tư của dự án và tỷ lệ cụ thể vượt quá quy định tại khoản 2 Điều 89 của Luật Đầu tư công và gắn với nội dung Chính phủ báo cáo Quốc hội về việc bổ sung 63.725 tỷ đồng nguồn tăng thu NSTW năm 2022 vào Kế hoạch đầu tư công trung hạn vốn NSTW giai đoạn 2021 – 2025 tương ứng với dự phòng chung Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 – 2025. Các nội dung này, Chính phủ cần báo cáo cấp có thẩm quyền trước khi trình Quốc hội xem xét về ngân sách và bổ sung Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 – 2025…
Về hiệu lực thi hành (Điều 8), một số ý kiến đề nghị xác định rõ thời gian hiệu lực của Nghị quyết; xem xét, rà soát thời gian tổng kết Nghị quyết cho phù hợp, UBTVQH xin tiếp thu và chỉnh lý Điều 8 dự thảo Nghị quyết theo hướng Nghị quyết này có hiệu lực thi hành kể từ ngày thông qua và được thực hiện đến hết ngày 30 tháng 6 năm 2025. Quy định tại khoản 1 Điều 7 về việc Chính phủ tổng kết việc thực hiện Nghị quyết, báo cáo Quốc hội tại kỳ họp cuối năm 2025.