Trước khi tiến hành biểu quyết, Quốc hội nghe Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội Lê Tấn Tới trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Quản lý, bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự.
Theo đó, trên cơ sở ý kiến của các vị ĐBQH và ý kiến của các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH), UBTVQH đã chỉ đạo cơ quan chủ trì thẩm tra phối hợp chặt chẽ với cơ quan chủ trì soạn thảo, Thường trực Ủy ban Pháp luật và các cơ quan hữu quan tiếp thu, chỉnh lý, rà soát kỹ lưỡng nội dung và kỹ thuật lập pháp của dự thảo Luật; Chính phủ đã có văn bản nhất trí với dự thảo Luật đã tiếp thu, chỉnh lý.
Về phân loại, phân nhóm công trình quốc phòng và khu quân sự tại (Điều 5, Điều 6), ông Tới cho biết, có ý kiến đề nghị làm rõ mối liên hệ giữa phân loại và phân nhóm công trình quốc phòng và khu quân sự; làm rõ công trình loại nào thuộc Nhóm đặc biệt, loại công trình nào thuộc Nhóm I, Nhóm II và Nhóm III và đề nghị quy định cụ thể trong dự thảo Luật; rà soát để thống nhất với các quy định của dự thảo Luật.
Trên cơ sở ý kiến ĐBQH, qua rà soát, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho thay thế từ “là” bằng từ “gồm” tại một số điểm, khoản của 2 điều này cho phù hợp với nội dung điều luật; đồng thời chỉnh lý lại Điều 5 và Điều 6 như dự thảo Luật trình Quốc hội thông qua.
Về công trình lưỡng dụng (Điều 7), có ý kiến đề nghị chỉnh lý khoản 6 cho phù hợp;bổ sung những quy định đặc thù trong quản lý, bảo vệ công trình lưỡng dụng khi sử dụng cho mục đích quân sự, quốc phòng; rà soát nội dung Điều này để bảo đảm chặt chẽ, khả thi.
Trên cơ sở ý kiến ĐBQH, để bảo đảm khi áp dụng Luật phù hợp với các đối tượng khác nhau sở hữu công trình dân sự có tính lưỡng dụng và tránh chồng chéo trong các quy định của pháp luật, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho bỏ cụm từ “pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công,” bổ sung cụm từ “được lập hồ sơ quản lý, thống kê, kiểm kê công trình quản lý, thống kê, kiểm kê công trình theo quy định tại Điều 10 và Điều 14” tại điểm a khoản 6, đồng thời chỉnh lý lại khoản 2 và khoản 4 Điều này như dự thảo Luật trình Quốc hội thông qua.
Về những hành vi bị nghiêm cấm (Điều 8), tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho bổ sung từ “trục lợi” vào trước cụm từ “xâm hại lợi ích của Nhà nước” tại khoản 6 và bỏ nội dung “giao công trình quốc phòng và khu quân sự cho đơn vị không đúng quy định”, vì đã được quy định tại khoản 3 Điều này.
Về phá dỡ công trình quốc phòng và khu quân sự (Điều 13), tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho bổ sung cụm từ “do yêu cầu bảo đảm bí mật Nhà nước mà”, bỏ cụm từ “hoặc bán, thanh lý” tại cuối điểm c khoản 1 Điều 13.
Theo đó chỉnh lý lại như sau: “Không còn nhu cầu sử dụng cho nhiệm vụ quân sự, quốc phòng nhưng do yêu cầu bảo đảm bí mật Nhà nước mà không được chuyển mục đích sử dụng” để rõ ràng, cụ thể hơn về trường hợp không còn nhu cầu sử dụng cho nhiệm vụ quân sự, quốc phòng mà không thể chuyển mục đích sử dụng, thuận lợi trong tổ chức thực hiện.
Tiếp thu ý kiến đại biểu về xác định phạm vi bảo vệ của công trình quốc phòng và khu quân sự (Điều 17), UBTVQH đề nghị Quốc hội cho bổ sung cụm từ “hoặc khoảng không của khu quân sự khi được thiết lập trên không” vào cuối điểm b khoản 1 Điều này để thống nhất với khoản 2 Điều 2 dự thảo Luật, phù hợp với thực tiễn và tạo cơ sở pháp lý khi thiết lập, bố trí trang, thiết bị quân sự và khu quân sự trên không.
Đồng thời, qua rà soát, để bảo đảm chặt chẽ, cụ thể, rõ ràng, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho chỉnh lý lại khoản 2, 3 và khoản 4 như dự thảo Luật trình Quốc hội thông qua.
Đối với chế độ bảo vệ đối với khu vực cấm, khu vực bảo vệ, vành đai an toàn công trình quốc phòng và khu quân sự; vành đai an toàn kho đạn dược, hành lang an toàn kỹ thuật hệ thống ăng-ten quân sự (Điều 18), ông Tới cho biết, thực tế hiện nay, hệ thống ăng-ten quân sự có nhiều chủng loại, các chướng ngại vật ăng-ten cũng rất đa dạng.
Dự thảo Luật chỉ quy định chế độ bảo vệ đối với hành lang an toàn kỹ thuật hệ thống ăng-ten quân sự thực hiện nhiệm vụ của cấp chiến dịch, chiến lược mà không điều chỉnh đối với hệ thống ăng-ten thông tin liên lạc của Bộ chỉ huy quân sự cấp tỉnh, Ban chỉ huy quân sự cấp huyện và tương đương.
Trên cơ sở ý kiến ĐBQH, để bảo đảm cụ thể, rõ ràng, thuận lợi trong tổ chức thực hiện, UBTVQH đã chỉnh lý khoản 4 Điều 2 và điểm a khoản này như dự thảo Luật trình Quốc hội thông qua.