Bộ NNPTNT cho biết, 9 tháng đầu năm, cả nước gieo cấy được 6.855,3 nghìn ha, giảm 0,6% so với cùng kỳ năm trước (CKNT); đã thu hoạch 5.366,8 nghìn ha, giảm 1,1% với năng suất bình quân đạt 62,6 tạ/ha, tăng 1,6 tạ/ha; sản lượng thu hoạch 33,6 triệu tấn, tăng 1,4%.
Về chăn nuôi, nhờ dịch bệnh trên gia súc, gia cầm cơ bản được kiểm soát nên chăn nuôi gia súc, gia cầm phát triển tốt. Tổng đàn vật nuôi đều tăng, cụ thể: Đàn trâu, sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 90,6 nghìn tấn, tăng 0,1%; Đàn bò, sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 373,4 nghìn tấn, tăng 2,4%; sữa bò tươi đạt 892,5 triệu lít, tăng 3,4%; Đàn lợn, tăng 4,2%, sản lượng thịt lợn hơi ước đạt 3.632,9 nghìn tấn, tăng 6,8%. Đàn gia cầm, tăng 3,5%; sản lượng thịt ước đạt 1.737,2 nghìn tấn, tăng 6,0%; trứng ước đạt 14,2 tỉ quả, tăng 5,6%.
Đối với lâm nghiệp, chỉ đạo công tác phòng chống cháy rừng, kịp thời phát hiện nguy cơ cháy rừng, đặc biệt tại các vùng trọng điểm có nguy cơ cao như Tây Bắc, Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ. Diện tích rừng bị thiệt hại 9 tháng đầu năm 1.641,79 ha, tăng 83%, trong đó bị cháy 671,8 ha, gấp 27,4 lần và bị chặt, phá 922,21 ha, tăng 7%. Lũy kế đến 22.9.2023, thu 2.027,64 tỉ đồng tiền DVMTR, đạt 61,6% kế hoạch năm và giảm 17% so với CKNT.
Với ngành thuỷ sản, thị trường xuất khẩu thủy sản quý III bắt đầu có sự khởi sắc, tạo động lực cho người nuôi thả nuôi mới; khai thác biển cơ bản giữ ổn định do thời tiết thuận lợi. Sản lượng tháng 9 đạt 857,7 nghìn tấn, tăng 2,8% so với CKNT; lũy kế 9 tháng 6.796,7 nghìn tấn, tăng 2,1%.
Về Xuất, nhập khẩu nông lâm sản, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu đạt 68,92 tỉ USD, giảm 7,5% so với CKNT. Trong đó, xuất khẩu 38,48 tỉ USD, nhập khẩu 30,44 tỉ USD, xuất siêu 8,04 tỉ USD tăng 22,5% so với CKNT.
Về xuất khẩu, tháng 9 xuất khẩu (XK) ước đạt 4,8 tỉ USD, tăng 22% so với tháng 9.2022; trong đó, nhóm nông sản 2,45 tỉ USD, tăng 46,9%; chăn nuôi 45,3 triệu USD, tăng 32,6%; lâm sản 1,28 tỉ USD, tăng 7,3%; thủy sản 850 triệu USD, giảm 0,8%; đầu vào sản xuất 166,5 triệu USD, giảm 5,5%.
Tính chung 9 tháng, do giá trị XK của một số mặt hàng xuất khẩu chính giảm sâu, nên tổng kim ngạch XK ước đạt 38,48 tỉ USD, giảm 5,1% so với CKNT. Trong đó, nhóm thuỷ sản 6,64 tỉ USD, giảm 21,7%; lâm sản 10,44 tỉ USD, giảm 20,6%; đầu vào sản xuất 1,49 tỉ USD, giảm 20,2%.
Riêng nhóm nông sản và chăn nuôi có giá trị tăng, nông sản 19,54 tỉ USD, tăng 16,7% (đóng góp bởi giá trị XK nhóm hàng rau quả 4,2 tỉ USD, tăng 71,8%; gạo 3,66 tỉ USD, tăng 40,4%; hạt điều 2,61 tỉ USD, tăng 14,3%; càphê 3,16 tỉ USD, tăng 1,9%) và sản phẩm chăn nuôi ước đạt 369 triệu USD, tăng 26,4%.
Về kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản, trong tháng 9 xuất khẩu (XK) ước đạt 4,8 tỉ USD, giảm 2,7% so với tháng 8.2023 và tăng 22% so với tháng 9.2022.
Trong đó, nhóm nông sản 2,45 tỉ USD, tăng 46,9% so với tháng 9.2022; chăn nuôi 45,3 triệu USD, tăng 32,6%; lâm sản 1,28 tỉ USD, tăng 7,3%; thủy sản 850 triệu USD, giảm 0,8%; đầu vào sản xuất 166,5 triệu USD, giảm 5,5%.
9 tháng đầu năm, do giá trị XK của một số mặt hàng xuất khẩu chính giảm sâu, nên tổng kim ngạch XK ước đạt 38,48 tỉ USD, giảm 5,1% so với CKNT. Trong đó, nhóm thuỷ sản 6,64 tỉ USD, giảm 21,7%; lâm sản 10,44 tỉ USD, giảm 20,6%; đầu vào sản xuất 1,49 tỉ USD, giảm 20,2%.
Riêng nhóm nông sản và chăn nuôi có giá trị tăng, nông sản 19,54 tỉ USD, tăng 16,7% (đóng góp bởi giá trị XK nhóm hàng rau quả 4,2 tỉ USD, tăng 71,8%; gạo 3,66 tỉ USD, tăng 40,4%; hạt điều 2,61 tỉ USD, tăng 14,3%; cà phê 3,16 tỉ USD, tăng 1,9%) và sản phẩm chăn nuôi ước đạt 369 triệu USD, tăng 26,4%…