Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ TN&MT Đặng Quốc Khánh; Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Bí thư Thành uỷ Đà Nẵng Nguyễn Văn Quảng; Phó Chủ tịch Hội đồng lý luận Trung ương Bùi Nhật Quang; Thứ trưởng Bộ TN&MT Võ Tuấn Nhân chủ trì Hội thảo.
Tham dự Hội thảo có hơn 100 đại biểu đến từ các Bộ, ngành, các tổ chức quốc tế, 16 tỉnh, thành khu vực miền Trung – Tây Nguyên, các chuyên gia và nhà khoa học.
Phát biểu khai mạc Hội thảo, Bộ trưởng Bộ TN&MT Đặng Quốc Khánh nhấn mạnh, Nghị quyết số 24-NQ/TW về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường có ý nghĩa quan trọng đối với ngành tài nguyên và môi trường, là căn cứ chính trị nhằm thể chế hóa thành pháp luật của Nhà nước nhằm quản lý chặt chẽ, hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu phục vụ phát triển bền vững kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết 24-NQ/TW, một trong những thành tựu nổi bật là sự chuyển biến căn bản trong nhận thức và tư duy của các Ban, bộ, ngành trung ương và các địa phương về công tác ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.
Những chủ trương lớn của Đảng đã từng bước được cụ thể hóa vào cách tiếp cận, mục tiêu của Chính phủ trong điều hành kinh tế – xã hội. Ứng phó với biến đổi khí hậu từng bước chuyển từ coi thích ứng là trọng tâm sang kết hợp giảm phát thải khí nhà kính, tận dụng cơ hội để hướng tới nền kinh tế xanh, các-bon thấp, năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai ngày càng được nâng cao, qua đó bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân và góp phần bảo vệ các thành quả phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Nguồn lực tài nguyên từng bước được điều tra, đánh giá đầy đủ hơn, được quản lý bền vững hơn nhưng cũng đã được khơi thông phục vụ cho phát triển kinh tế – xã hội, được phân bổ theo tín hiệu thị trường thông qua đấu giá quyền sử dụng, quyền khai thác. Tư duy về bảo vệ môi trường đã được đổi mới căn bản; công tác bảo vệ môi trường chuyển từ bị động ứng phó sang chủ động phòng ngừa, kiểm soát, đặc biệt là đối với các nguồn gây ô nhiễm lớn.
Trên bình diện quốc tế, Nghị quyết đã đặt ra định hướng để Việt Nam chủ động, tích cực tham gia vào các hiệp định, thỏa thuận hợp tác toàn cầu và khu vực về tài nguyên, môi trường và khí hậu, qua đó một mặt bảo vệ lợi ích quốc gia nhưng cũng thể hiện trách nhiệm của nước ta trong nỗ lực chung toàn cầu góp phần nâng cao vị thế của đất nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả quan trọng đã đạt được, vẫn còn những hạn chế cần được phân tích đầy đủ, khách quan và khoa học trong quá trình tổng kết Nghị quyết. Ngoài ra, bối cảnh thế giới, khu vực và trong nước đã có nhiều thay đổi. Chính phủ Việt Nam đã tham gia cam kết mục tiêu phát thải ròng bằng “0”, chuyển đổi năng lượng tại COP26; cùng với Nam Phi và Indonesia, Việt Nam trở thành quốc gia thứ ba trên thế giới thông qua Tuyên bố chính trị thiết lập Quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng với các đối tác quốc tế (JETP), tham gia cam kết theo Khung đa dạng sinh học toàn cầu… Những cam kết của Việt Nam đã mở ra các cơ hội hợp tác đầu tư và phát triển mới cho Việt Nam theo hướng xanh, các-bon thấp nhưng cũng đòi hỏi Việt Nam phải nỗ lực hơn nữa trong hoàn thiện thể chế chính sách, cải thiện môi trường đầu tư, thu hút nguồn lực để thực hiện chuyển đổi năng lượng công bằng; bảo tồn được tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ, phục hồi hệ sinh thái tự nhiên.
Do đó, tại Hội thảo, Bộ trưởng Bộ TN&MT đề nghị đại biểu nghiên cứu, thảo luận và cho ý kiến về việc thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW tập trung vào các nội dung chính: Đánh giá một cách toàn diện, khách quan kết quả cụ thể hóa các các quan điểm, thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp nêu trong Nghị quyết, qua đó làm rõ thêm những quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp nào cần bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với bối cảnh, tình hình mới; làm rõ thêm nội dung đã được thể chế hoá, chưa được thể chế hóa hoặc thể chế hóa chưa đầy đủ. Kết quả tổ chức thực hiện trong thực thực tiễn, những bài học kinh nghiệm, những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân; dự báo xu thế phát triển, đề xuất được những quan điểm, định hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cụ thể cho giai đoạn đến 2030 và tầm nhìn đến năm 2050; cho ý kiến việc kiến nghị Ban Chỉ đạo tham mưu cho Trung ương ban hành một Nghị quyết mới thay thế Nghị quyết số 24-NQ/TW hay tiếp tục thực hiện Nghị quyết 24-NQ/TW có bổ sung những quan điểm, nội dung mới.
Ông Nguyễn Văn Quảng – Bí thư Thành uỷ Đà Nẵng cho biết, qua 10 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW và Chương trình số 27-CTr/TU của Thành ủy, một số chi tiêu về bảo vệ môi trường của thành phố đến nay đã đạt và vượt như chỉ số chất lượng không khí luôn duy trì dưới mức 100; 100% tỷ lệ nước thải công nghiệp được thu gom và xử lý đạt quy chuẩn; 100% hộ dân được sử dụng nước sạch; 100% chất thải rắn được thu gom và xử lý; tỷ lệ che phủ rừng đạt 45,6%…
Bên cạnh đó, thành phố Đà Nẵng đã được các Bộ, ngành, tổ chức trong và ngoài nước ghi nhận, đánh giá cao và đạt nhiều giải thưởng về công tác bảo vệ môi trường. Và hội thảo hôm nay, cũng là cơ hội để các ngành chức năng thành phố Đà Nẵng trao đổi, tiếp thu các kinh nghiệm của các chuyên gia, nhà khoa học và các địa phương trong việc thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu và quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường trên địa bàn thành phố trong thời gian tới.
Tại Hội thảo, PGS.TS Nguyễn Đình Thọ – Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách TN&MT đã báo cáo tóm tắt Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 24NQ/TW. Theo đó, việc quản lý và sử dụng tài nguyên đã có những kết quả tích cực, cơ bản chấm dứt xuất khẩu khoáng sản thô, chưa qua chế biến; về tài nguyên nước đã thiết lập 11 quy trình vận hành liên hồ chứa, triển khai phân vùng hạn chế khai thác nước dưới đất, cắm mốc hành lang bảo vệ nguồn nước; chính sách bảo vệ và phát triển rừng đạt được nhiều kết quả, chi trả dịch vụ môi trường rừng hiệu quả; năng lượng tái tạo đạt bước phát triển vượt bậc, tỷ lệ điện gió, điện mặt trời đạt 26,5%, tổng năng lượng tái thương mại sơ cấp đạt 14,9%. Nguồn thu từ các loại tài nguyên năm 2022 đạt 25.600 tỷ đồng, tăng gấp 3 lần so với năm 2013.
Về bảo vệ môi trường, đã ban hành được chiến lược bảo tồn đa dạng sinh học, chiến lược quản lý tổng hợp chất thải rắn, Luật Bảo vệ môi trường 2020; hệ thống quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường được rà soát, hoàn thiện, tương đương các nước dẫn đầu trong khu vực ASEAN; công bố 622 tiêu chuẩn Việt Nam và nhiều tiêu chuẩn địa phương về môi trường. Đến năm 2022, tỷ lệ hộ gia đình nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh đã đạt 92,5% (năm 2012 là 80,5%); khu công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt 91% (năm 2012 là 60%); tỷ lệ thu gom chất thải rắn sinh hoạt (đô thị) đạt 96% (năm 2012 là 82%); tỷ lệ che phủ rừng đạt 42,02% (năm 2012 là 40,7%)….
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Nghị quyết 24 vẫn còn những hạn chế, tồn tại như mô hình tăng trưởng kinh tế chưa bền vững, các mô hình kinh tế xanh/đô thị xanh chưa phổ biến; phương thức quản lý tổng hợp tài nguyên chưa thực chất; hệ thống cơ sở dữ liệu theo chuẩn quốc tế chưa hoàn thành….
Tại Hội thảo, các Bộ, ngành và địa phương đã cho ý kiến về tình hình triển khai Nghị quyết số 24-NQ/TW và đề xuất quan điểm, mục tiêu, giải pháp trong thời gian tới. Đồng thời, Hội thảo cũng nhận được các ý kiến đóng góp thiết thực và hữu ích từ các chuyên gia, nhà khoa học để tổng hợp, hoàn thiện Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW.
Chia sẻ tại Hội thảo, Trưởng đại diện Tổ chức Hanns Seidel Foundation (HSF) tại Việt Nam Micheal Siegner cho biết, rất ấn tượng với thành quả mà Việt Nam đã đạt được trong chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Việt Nam là một trong những quốc gia đi đầu trong việc tạo khung pháp lý và các cam kết giải quyết khủng hoảng BĐKH như mục tiêu Netzero; Quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng và phát triển kinh tế tuần hoàn. Tuy nhiên, trước xu thế hiện nay, chúng tôi có những chia sẻ như khi hoàn thiện khung chính sách, pháp lý cần phải thiết kế để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi nền kinh tế tuần hoàn mà không tác động đến nền kinh tế, sẽ tạo được không gian cho các doanh nghiệp phát triển.
TS. Nguyễn Đình Huấn, Trưởng khoa Môi trường (ĐH Bách Khoa Đà Nẵng) cho rằng, từ khi Nghị quyết ra đời, lãnh đạo các địa phương đã dành nhiều sự quan tâm, đầu tư hơn cho công tác môi trường và lồng ghép vào kế hoạch phát triển kinh tế của mỗi địa phương. Để hoàn thiện công tác tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết cần đưa ra những chỉ tiêu đã làm được đang ở mức nào và đếm 20, 30 năm sau sẽ đạt được những con số nào.
Thứ hai, những vấn đề về môi trường như than, chất thải nguy hại phải được giải quyết ở mức độ tổng thể mà Bộ TN&MT là cơ quan chủ đạo chứ không chỉ là giải pháp của từng địa phương.
Thứ ba, về chuyển đổi số trong lĩnh vực tài nguyên môi trường thì cần cụ thể hơn các chỉ tiêu, nội dung thực hiện, đơn vị thực hiện để triển khai hiệu quả hơn.
Theo kế hoạch, sau hội nghị vùng, Bộ TN&MT sẽ tiếp tục hoàn thiện Báo cáo tổng kết Nghị quyết và gửi xin ý kiến chính thức của các Bộ, ngành, địa phương trước khi trình Bộ Chính trị trong thời gian tới.
Phát biểu kết luận hội nghị, thay mặt cho cơ quan chủ trì, Bộ trưởng Đặng Quốc Khánh cảm ơn các địa phương, tổ chức quốc tế, nhà khoa học đã có những tham luận hết sức giá trị và quan trọng được đúc kết từ những thực tiễn ở các địa phương và nghiên cứu chuyên sâu làm rõ nét hơn, sâu sắc hơn về kết quả thực hiện cũng như chỉ ra những tồn tại trong 10 năm thực hiện Nghị quyết 24 để khẳng định rằng Nghị quyết khi triển khai đã được các cấp, các ngành tổ chức thực hiện có hiệu quả và nguồn lực tài nguyên, khoáng sản đã đóng góp quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội.
Trong bối cảnh Việt Nam cũng như các quốc gia trên thế đang nỗ lực trong việc bảo vệ môi trường, chuyển đổi năng lượng, thích ứng với biến đổi khí hậu, Bộ trưởng Đặng Quốc Khánh cho biết, sau hội thảo, Bộ TN&MT sẽ tổng hợp, báo cáo và tham mưu cho Bộ Chính trị, Trung ương để đề ra những quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp cụ thể trong đó tập trung vào các mục tiêu sử dụng hiệu quả, quản lý tốt nguồn tài nguyên, ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường trong thời kỳ mới.