Giá cao chỉ là nhất thời
Việc Ấn Độ cấm xuất khẩu (XK) khiến giá gạo thế giới tăng cao. Riêng gạo 5% tấm của VN và Thái Lan chạm ngưỡng 650 USD/tấn. Theo ông, VN có thể khai thác cơ hội này thế nào để đạt hiệu quả cao nhất?
Lần sốt giá gạo gần đây xảy ra vào năm 2008, cách nay 15 năm. Ngoài những đợt giá gạo lên cơn sốt vì các yếu tố kinh tế và chính trị chúng ta thấy rằng giá gạo bình quân khá thấp. Suốt 15 năm qua, giá gạo 5% tấm XK của VN và Thái Lan trên 400 USD/tấn, trong khi Ấn Độ và Pakistan cũng chỉ hơn 300 USD/tấn. Dẫn chứng này cho thấy, chính vì gạo là mặt hàng lương thực quan trọng của thế giới nên giá gạo bình quân không cao và ít biến động. Khi lên quá cao, người ta sẽ dùng các biện pháp kìm giá giá lại như Ấn Độ đang làm với giá gạo nội địa.
Nếu lấy mốc tháng 6.2023 so với cách đó một năm thì giá gạo tăng khoảng 100 USD/tấn. Đó đã là sự tăng giá đáng kể vì yếu tố kinh tế và chính trị. Chỉ trong khoảng 1 tháng qua khi Ấn Độ cấm XK gạo, giá lại tăng thêm 100 USD/tấn nữa, là yếu tố đột biến nhất thời. Việc giá gạo tăng mạnh và nhanh như hiện nay thuần túy về mặt kinh tế là cơ hội hiếm có.
Ban đầu tôi lo lắng các nhà quản lý sẽ mắc sai lầm như năm 2008, tạm dừng XK khi giá gạo đang có lợi cho bà con nông dân. Trong các đợt El Nino gần đây, cũng đã có ý kiến kêu gọi tạm dừng XK. Nếu tạm dừng XK sẽ không phải là quyết định khôn ngoan. Tuy nhiên lần này, các cơ quan quản lý không có chủ trương dừng mà lại muốn tăng diện tích, sản lượng, đẩy mạnh XK để “kiếm thêm” 100 triệu USD thì tôi lại có nỗi lo khác.
Kiếm thêm ngoại tệ về cho đất nước trong bối cảnh kinh tế khó khăn, vì sao ông lại lo?
Giá thị trường là 300 – 400 USD/tấn đã kéo dài hàng chục năm trời và đó là giá thực tế. Còn giá 600 – 700 USD/tấn có tính thời điểm. Nếu chạy theo cái nhất thời thì rất khó nắm bắt được. Còn xét theo quy luật thị trường, vì sao gạo VN và Thái Lan tới 400 USD/tấn mà Ấn Độ chỉ có 300 USD/tấn? – Vì chất lượng gạo của họ rất thấp, phục vụ các thị trường dễ tính. VN một thời cũng chạy theo số lượng nhưng khoảng một chục năm gần đây chuyển hướng sang chất lượng nên bán được giá cao, thậm chí có thời điểm giá cao nhất thế giới. Điều đó chứng tỏ gạo của VN đã ở phân khúc hoàn toàn khác. Vì thế, chúng ta cũng cần tỉnh táo nhận rõ đâu là cơ hội thật sự của hạt gạo VN.
Nhìn lại những năm gần đây, các nước không tăng được sản lượng gạo thì VN vẫn tăng nhưng không phải nhờ tăng diện tích mà cải tiến kỹ thuật canh tác. Nhưng nếu chỉ dựa vào kỹ thuật canh tác thì sản lượng không nhiều, chỉ có tăng diện tích mới tăng được sản lượng đáng kể. Thế giới bị tác động của biến đổi khí hậu, khô hạn thì VN cũng phải chịu những tác động như vậy.
ĐBSCL là một trong 3 đồng bằng bị tác động nhiều nhất của biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Điều này có nghĩa cùng với hiện tượng El Nino, trong mùa khô sắp tới mưa sẽ kết thúc sớm, xâm nhập mặn sẽ vào sớm và sâu hơn. Nếu chúng ta quá hồ hởi với cơn sốt giá gạo hiện tại có thể rơi vào tình trạng mất cảnh giác, khi đó sẽ phải gánh lấy những hậu quả không mong muốn. Rất có thể phải chạy theo việc chống hạn mặn, tìm nguồn nước ngọt để cứu lúa chết khô.
Như vậy, vấn đề đặt ra cho người nông dân, các cơ quan quản lý nhà nước là chúng ta có nên mạo hiểm trước một cơ hội mong manh và có nhiều biến số ấy không?
An ninh lương thực đâu chỉ có gạo
Nhưng nhân loại vẫn cần lương thực để tồn tại nên thế giới vẫn sẽ có nhu cầu cao về lương thực ít nhất đến khi nào El Nino gây khô hạn còn diễn ra?
Điều này đúng nhưng chưa đủ cho bức tranh toàn cảnh và đa chiều. Giá gạo hiện nay đang tăng vì hai yếu tố. Thứ nhất nguồn cung hạn chế vì thời tiết cực đoan ở khắp thế giới. Đây là xu hướng gần như không thể đảo ngược nên nhu cầu lương thực và giá cả sẽ luôn tăng. Nhưng chúng ta cần phân biệt nó với cơn sốt giá hiện nay là do lệnh cấm XK từ Ấn Độ. Nếu một khi lệnh cấm bị dỡ bỏ dù chỉ một phần, ngay lập tức giá gạo sẽ hạ nhiệt.
Bây giờ, chúng ta hãy xem xét đến trường hợp này. Chính phủ Ấn Độ cấm XK gạo để đảm bảo an ninh lương thực và kiềm chế lạm phát. Nhưng Ấn Độ cũng là một nước XK gạo bình quân đến 20 triệu tấn/năm, đây là nguồn ngoại tệ không nhỏ, thu nhập của hàng trăm triệu dân nước này. Khi giá thế giới liên tục tăng, người nông dân Ấn Độ lại không được hưởng lợi, khi ấy chính phủ nước này sẽ chịu áp lực không hề nhỏ. Có thể nó sẽ sớm đến khi nước này bước vào vụ thu hoạch lúa gạo ở cuối năm nay.
Vậy VN cần giải bài toán này như thế nào?
Kiên trì chiến lược phát triển hạt gạo theo hướng chất lượng và giá trị. Phát triển nền kinh tế nông nghiệp VN theo hướng hiện đại, thân thiện môi trường mà ta có thể gọi là nền nông nghiệp Net Zero. Phát triển vựa lúa – cá – tôm – trái cây ở ĐBSCL theo hướng “thuận thiên” mà Nghị quyết 120 đã vạch ra.
Chúng ta biết rằng, gạo chỉ là một phần nhỏ trong khái niệm an ninh lương thực của Liên Hiệp Quốc. Trong bữa ăn của chúng ta, không chỉ cần có cơm mà phải có rau, thịt, cá, thậm chí là trái cây. Xét về con số thực, XK rau quả hay tôm, cá đều có kim ngạch lớn hơn lúa gạo. Vậy tại sao chúng ta lại chạy theo sự tăng giá gạo nhất thời?
Nghị quyết 120 đã sửa chữa những sai lầm trong quá khứ khi chúng ta quá tập trung vào cây lúa mà xem nhẹ những thế mạnh khác. Nghị quyết đã xác lập lại rõ ràng 3 vùng sinh thái ở ĐBSCL gồm vùng thượng nguồn sông Cửu Long, vùng giữa và vùng ven biển. Vùng thượng nguồn dọc biên giới với Campuchia có diện tích lên tới 1,5 triệu ha, nguồn nước ngọt đầu nguồn dồi dào, có thể trồng lúa 3 vụ ăn chắc. Khu vực này là kho dự trữ lương thực tự nhiên quanh năm đủ dùng cho 100 triệu dân VN, thậm chí khi trúng mùa vẫn có dư để XK.
Vùng giữa và ven biển, người dân vẫn trồng lúa kết hợp làm vườn, nuôi tôm cá nước ngọt và lợ theo mùa. Trái cây và tôm, cá XK mang lại lợi tức rất lớn cho người nông dân. Chỉ mới XK sầu riêng trong năm đầu tiên đã thu về hơn 1 tỉ USD. Chúng ta không nhất thiết phải chạy theo giá lúa gạo đang cao mà đưa mình vào tình thế rủi ro. Tuân thủ chiến lược Nghị quyết 120 là việc tối ưu hóa khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững, thuận tự nhiên. Đó mới là chiến lược lâu dài và khẳng định vị thế của VN trong việc cung cấp cũng như đảm bảo an ninh lương thực thế giới.
Vì một nền nông nghiệp Net Zero
Không những không nên chạy theo số lượng và giá cả nhất thời mà cần tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật trong trồng lúa nhằm làm hạt gạo của VN không những ngon, sạch mà còn rẻ hơn. Kỹ thuật trồng lúa phổ biến hiện nay, giá thành sản xuất từ 3.800 – 4.200 đồng/kg, còn các kỹ thuật mới chỉ tốn 2.500 – 2.800 đồng/kg do giảm chi phí giống, phân bón, thuốc trừ sâu bệnh. Đặc biệt, các kỹ thuật mới giúp giảm phát thải khí nhà kính giúp hạt gạo VN “xanh hơn” cũng như thực hiện cam kết của Chính phủ VN về một nền nông nghiệp Net Zero. Khi đó hạt gạo và nông sản VN sẽ đi xa hơn vào các thị trường khó tính hơn với số lượng lớn hơn. Đó mới là vị thế mới mà hạt gạo VN nên xác lập.
GS Võ Tòng Xuân