Sau can thiệp tim mạch và mạch máu não, đến trưa 10.8, bệnh nhân L.V.L (69 tuổi, quê Vĩnh Long) đã qua cơn nguy kịch và hồi phục kỳ diệu.
Nguy cơ tử vong tăng gấp chục lần
Năm ngày trước, bệnh nhân được người nhà đưa đến bệnh viện địa phương cấp cứu trong tình trạng nặng ngực ở vùng sau xương ức, khó thở; cơn đau ngực tái phát nhiều lần. Sau đó, bệnh nhân nhanh chóng được chuyển lên tuyến trên là Bệnh viện đa khoa Trung ương Cần Thơ với chẩn đoán nhồi máu cơ tim cấp, đái tháo đường loại 2, tăng huyết áp.
Tại khoa Cấp cứu, Bệnh viện đa khoa Trung ương Cần Thơ, các bác sĩ đã hội chẩn với ê kíp trực cấp cứu tim mạch can thiệp và chỉ định can thiệp mạch vành cấp cứu cho bệnh nhân. Tuy nhiên, chuyện hy hữu xảy ra, khi đang chuẩn bị đặt ống thông can thiệp mạch vành, các bác sĩ phát hiện bệnh nhân L. có dấu hiệu đột quỵ, bị liệt hoàn toàn nửa người bên trái và nói đớ.
Nhận định đây là một trường hợp hiếm gặp, có sự phối hợp giữa hai bệnh lý cấp cứu nguy hiểm là nhồi máu cơ tim cấp và nhồi máu não, ê kíp can thiệp mạch máu não lập tức được báo động để cùng phối hợp điều trị cho bệnh nhân.
Kết quả chụp CT scan não kiểm tra ngay tại phòng can thiệp cho thấy phù hợp với chẩn đoán có phối hợp nhồi máu não cấp. Ca can thiệp đầu tiên diễn ra, sau 40 phút, ê kíp hoàn tất việc nong động mạch vành bị tắc, đặt stent tái lập dòng máu nuôi tim cho bệnh nhân.
Liền ngay sau đó, ê kíp can thiệp mạch não bắt tay vào việc. Chỉ sau 20 phút các bác sĩ cũng đã hoàn thành việc lấy huyết khối, tái thông mạch máu não bị tắc cho bệnh nhân.
Ngày hôm sau, kết quả chụp cộng hưởng cho thấy mạch máu não bị tắc đã tái thông tốt. Hiện tại, bệnh nhân tỉnh, sinh hiệu ổn định, không còn đau ngực, không rối loạn ngôn ngữ, còn yếu nhẹ nửa người bên trái.
TS-BS Hà Tấn Đức, Trưởng khoa Đột quỵ, Bệnh viện đa khoa Trung ương Cần Thơ, cho biết: “Thông thường là do cục máu đông hình thành gây bít tắc mạch vành và mạch máu não. Nguy hiểm là khi có cùng hai bệnh lý như bệnh nhân L. nó sẽ làm mờ các triệu chứng đặc trưng của các bệnh lý, dẫn đến khó nhận biết. Điểm thứ hai là khi có một bệnh lý cấp cứu chồng lên một bệnh lý cấp cứu nữa thì nguy cơ tử vong sẽ tăng lên gấp hàng chục lần”.
Một số yếu tố nguy cơ nhồi máu cơ tim kèm theo đột quỵ
Cũng theo BS Đức, bệnh lý nhồi máu não phối hợp nhồi máu cơ tim hay ngược lại nhồi máu cơ tim kết hợp với nhồi máu não rất ít khi xảy ra. Cụ thể tỷ lệ xảy ra đột quỵ nội viện sau nhồi máu cơ tim được ghi nhận với tần suất 1,4 – 1,5% nhưng có xu hướng ít thay đổi qua nhiều năm. Tuy nhiên, tỷ lệ tử vong trong thời gian nằm viện của nhóm bệnh nhân này cao lên đến 25%. Nguyên nhân tử vong chủ yếu do choáng tim, choáng nhiễm trùng, suy hô hấp, suy thận, suy tim.
Một số yếu tố nguy cơ khiến bệnh nhân nhồi máu cơ tim dễ xảy ra đột quỵ bao gồm: Tuổi cao, giới nữ, rung nhĩ, suy tim, đái tháo đường, bệnh thận mạn, xơ vữa mạch máu. Cả hai bệnh lý này đều cần được can thiệp càng sớm càng tốt để giảm nguy cơ tử vong. Dù vậy, khi bệnh nhân bị cả hai bệnh lý cấp cứu vừa nhồi máu cơ tim, vừa nhồi máu não sẽ không thể can thiệp cùng lúc. “Trước hết cần đánh giá bệnh lý nào đang đe dọa tính mạng bệnh nhân nhiều thì ưu tiên xử lý trước. Đồng thời cũng tùy thuộc vào bối cảnh thực tế, làm thế nào để phối hợp hai ê kíp tim mạch can thiệp mạch não nhịp nhàng nhất có thể. Khi hai ê kíp phối hợp trơn tru với nhau, bệnh nhân sẽ không phải nằm chờ và hiệu quả cấp cứu sẽ tốt hơn”, BS Đức nói.
TS-BS Hà Tấn Đức cũng đưa khuyến cáo 11 dấu hiệu và tình huống được coi là cấp cứu y tế, trong đó có cả nhồi máu cơ tim, đột quỵ nhồi máu não, yêu cầu bệnh nhân phải được đưa đến bệnh viện ngay lập tức:
- Đau ngực nghiêm trọng hoặc khó thở: Đau ngực có thể là dấu hiệu của vấn đề tim mạch nghiêm trọng như đau tim, nhồi máu cơ tim. Khó thở nghiêm trọng cũng có thể liên quan đến vấn đề hô hấp hoặc tim mạch.
- Ngưng tim hoặc ngưng thở: Nếu bệnh nhân bất ngờ ngừng tim hoặc ngưng thở, cần thực hiện RCP (hồi sinh tim phổi) ngay lập tức và đưa bệnh nhân đến bệnh viện.
- Tắc nghẽn đường thở: Nếu bệnh nhân có triệu chứng của tắc nghẽn đường thở, như khản tiếng, hoặc không thở được, cần kiểm tra và can thiệp ngay lập tức để đảm bảo đường thở được thông thoáng.
- Chảy máu nặng: Nếu chảy máu nhiều không ngừng hoặc không thể kiểm soát, đặc biệt là ở vùng đầu, cổ, bụng, cần đưa người bệnh đến bệnh viện.
- Tổn thương nghiêm trọng: Vết thương sâu, gãy xương mở, bỏng nặng hoặc chấn thương đầu nghiêm trọng đều cần phải được kiểm tra và điều trị tại bệnh viện.
- Tình trạng sức khỏe tụt dốc đột ngột: Nếu bệnh nhân có triệu chứng như hoa mắt, chóng mặt, mất ý thức, có thể liên quan đến vấn đề huyết áp, đường huyết hoặc các vấn đề nội tiết khác.
- Đột quỵ (Stroke): Nếu bệnh nhân có triệu chứng như mất cảm giác, tê liệt một bên cơ thể, khó nói, cần đưa ngay đến bệnh viện vì có thể đột quỵ.
- Sự cố hô hấp: Nếu bệnh nhân gặp khó khăn trong việc thở, thở rất nhanh hoặc rất chậm, có thể liên quan đến vấn đề hô hấp nghiêm trọng.
- Dị ứng nặng: Nếu bệnh nhân gặp phản ứng dị ứng nghiêm trọng sau khi tiếp xúc với một chất gây dị ứng, cần kiểm tra và điều trị kịp thời.
- Suy tim nặng: Triệu chứng như sự khó thở, sưng chân… có thể là dấu hiệu của suy tim nghiêm trọng.
- Đau bụng cấp: Mặc dù không phải luôn là tình huống cấp cứu, tuy nhiên một số bệnh lý như viêm ruột thừa, viêm tụy cấp, thủng dạ dày ruột, thai ngoài tử cung vỡ… là một trong các bệnh lý cấp cứu cần can thiệp khẩn.