Những trường hợp lưu trữ tinh trùng
Theo ThS – BS Nguyễn Thị Hằng, Giám đốc Ngân hàng mô (Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức), hiện ngân hàng mô lưu trữ tinh trùng chỉ phục vụ cho mục đích hỗ trợ sinh sản trong các trường hợp: điều trị vô sinh hiếm muộn, lưu trữ cá nhân dự phòng nguy cơ rủi ro, người tình nguyện hiến tinh trùng.
Tinh trùng được bảo quản ở ngân hàng mô lưu trữ tinh trùng bằng phương pháp bảo quản lạnh sâu. Tinh trùng được bảo quản lâu dài ở nhiệt độ -196 độ C (trong ni tơ lỏng).
Theo Ngân hàng mô, bảo quản lạnh tinh trùng nam giới là một kỹ thuật thường quy đã được áp dụng ở các trung tâm hỗ trợ sinh sản hay các ngân hàng tinh trùng với mục đích lưu giữ tinh trùng trước khi tiến hành thụ tinh nhân tạo hay thụ tinh trong ống nghiệm.
Bảo quản lạnh tinh trùng đặc biệt quan trọng với các bệnh nhân ung thư trước khi điều trị hóa chất, xạ trị có nguy cơ gây suy tinh hoàn hay rối loạn chức năng phóng tinh.
Bên cạnh đó, quá trình điều trị một số bệnh tự miễn cũng có thể gây tổn thương tinh hoàn, từ đó hoạt động sinh tinh sẽ bị ảnh hưởng. Do đó, các trường hợp bảo quản lạnh tinh trùng nên được tiến hành để dự phòng suy tinh hoàn sau điều trị.
Bảo quản tinh trùng trong các trường hợp không mắc bệnh lý ác tính có thể được lựa chọn trước khi phẫu thuật thắt ống dẫn tinh; người làm việc trong môi trường độc hại, dự phòng khi chất lượng tinh trùng có nguy cơ giảm dần; hoặc cũng được chỉ định cho các trường hợp có rất ít tinh trùng di động hay hoạt động sinh tinh không ổn định.
Ngoài ra, bảo quản lạnh tinh trùng còn giúp tăng tính thuận tiện và an toàn cho các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản trong trường hợp người chồng khó lấy mẫu vào ngày làm thủ thuật, đi công tác xa nhà, khi mật độ tinh trùng quá ít hay trường hợp chỉ có vài tinh trùng trong các thủ thuật lấy tinh trùng từ mào tinh hoàn, tinh hoàn.
Điều trị ung thư và khả năng sinh sản
Theo Bệnh viện Ung bướu Hà Nội, bệnh ung thư hoặc các phương pháp điều trị ung thư ảnh hưởng khả năng sinh sản ở nam giới qua 2 con đường chính. Trong đó, có thể là gây tổn thương các tuyến nội tiết hoặc các cơ quan liên quan đến nội tiết bao gồm tinh hoàn, tuyến giáp và tuyến thượng thận; ảnh hưởng khả năng sinh sản do những thay đổi trong phần cấu trúc của não kiểm soát hệ thống nội tiết.
Những vấn đề về khả năng sinh sản có thể là hậu quả của tổn thương tinh trùng hoặc giảm sản xuất tinh trùng; giảm sản xuất tinh dịch hoặc không tạo ra được tinh dịch. Tinh dịch chứa tinh trùng từ tinh hoàn và dịch từ tuyến tiền liệt và túi tinh. Khi tổn thương bất kỳ cấu trúc nào nêu trên, tổn thương thần kinh chi phối hoặc các ống dẫn đến niệu đạo của tinh dịch đều có thể gây vô sinh.
Ngoài ra, trong điều trị, một số thuốc, phương pháp điều trị ung thư có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh sản. Với xạ trị trong điều trị ung thư, bức xạ có khả năng tiêu diệt các tế bào tinh trùng và tế bào gốc tạo ra tinh trùng.
Một số phẫu thuật cắt bỏ những cơ quan như: tuyến tiền liệt, bàng quang; một hoặc hai bên tinh hoàn có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh sản. Phẫu thuật nạo vét hạch trong vùng hố chậu cũng có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh sản.
Việc sản xuất tinh trùng có thể được hồi phục lại sau quá trình điều trị mặc dù có thể không được như trước. Việc điều trị có thể làm ngưng hoặc chậm quá trình sản xuất tinh trùng trong nhiều năm.
Do đó, trước khi bắt đầu điều trị ung thư, người bệnh có thể trao đổi với bác sĩ về phương pháp điều trị có ảnh hưởng khả năng sinh sản hay không và những lựa chọn để bảo tồn khả năng sinh sản.