Đối với các công ty công nghệ lớn của Mỹ như Apple, Microsoft, Tesla… Trung Quốc vẫn là thị trường không thể thiếu, dù căng thẳng giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới không ngừng leo thang.
Các công ty công nghệ Mỹ vẫn phụ thuộc chủ yếu vào Trung Quốc. (Nguồn: ABC News) |
Lũ lượt đến Trung Quốc
Đầu năm nay, các nhà lãnh đạo của nhiều doanh nghiệp công nghệ quyền lực nhất của Mỹ đã lũ lượt kéo đến Trung Quốc, sau khi nước này chấm dứt các biện pháp kiểm soát đại dịch Covid-19 và dần mở cửa trở lại. Bất chấp mối quan hệ căng thẳng giữa Washington và Bắc Kinh, các tập đoàn lớn Mỹ vẫn tăng cường tìm kiếm cơ hội ở thị trường tỷ dân.
Tháng 3, Tim Cook, Giám đốc điều hành của Apple tham dự Diễn đàn Phát triển Trung Quốc được tổ chức tại Bắc Kinh. Tại đây, ông phát biểu rằng: “Apple và Trung Quốc cùng nhau phát triển. Đây là một mối quan hệ cộng sinh”.
Tháng 4, Giám đốc điều hành Intel Pat Gelsinger cũng đến thăm Bắc Kinh và gặp gỡ các quan chức Trung Quốc.
Cuối tháng 5, Elon Musk, đồng sáng lập công ty xe điện Tesla, đến thăm Trung Quốc. Doanh nhân nổi tiếng này đã gặp gỡ các quan chức chính phủ Trung Quốc tại Bắc Kinh và sau đó đi thăm nhà máy Tesla tại Thượng Hải.
Và mới nhất, tháng 6/2023, Bill Gates, người đồng sáng lập tập đoàn công nghệ khổng lồ Microsoft của Mỹ, được Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tiếp đón tại Bắc Kinh – một ngoại lệ gần như chưa từng có đối với một nhà lãnh đạo doanh nghiệp.
“Ông là người bạn Mỹ đầu tiên mà tôi gặp trong năm nay”, Chủ tịch Trung Quốc nói với tỷ phú Mỹ.
Thị trường không thể thiếu
Sự chú ý của lãnh đạo các doanh nghiệp công nghệ Washington đối với Bắc Kinh chứng tỏ tầm quan trọng của quốc gia này với một số doanh nghiệp lớn nhất nước Mỹ.
Trong khi nền kinh tế lớn nhất thế giới nỗ lực thắt chặt các biện pháp trừng phạt nhằm ngăn chặn Trung Quốc tiếp cận công nghệ của Mỹ, các công ty công nghệ lớn nhất của Washington vẫn phụ thuộc rất nhiều thị trường tỷ dân.
Trên thực tế, dù đã 5 năm “tách rời”, nhưng sự phụ thuộc này hầu như không thay đổi.
Năm 2018, Washington bắt đầu chuyển dần sang trạng thái tách khỏi Bắc Kinh, dưới thời Tổng thống Mỹ lúc bấy giờ – ông Donald Trump. Vị Tổng thống này đã áp đặt các hạn chế đối với xuất khẩu và đầu tư nhằm hạn chế khả năng tiếp cận của Trung Quốc với công nghệ tiên tiến của Mỹ.
Nhưng 5 năm sau, một phân tích dữ liệu tài chính của Nikkei Asia cho thấy, các công ty công nghệ Mỹ vẫn phụ thuộc chủ yếu vào Trung Quốc.
Tính theo tỷ lệ doanh số hàng năm, doanh số thu được của các thương hiệu công nghệ hàng đầu, chẳng hạn như Apple và Tesla, đã tăng hoặc hầu như không thay đổi kể từ năm 2018. Ngay cả các công ty trong lĩnh vực bán dẫn, vốn là mục tiêu cụ thể của chính phủ Mỹ cũng ít nhận thấy sự thay đổi trong doanh thu.
Số liệu của QUICK-FactSet cho thấy, Apple, công ty có giá trị nhất thế giới tính theo vốn hóa thị trường, kiếm được nhiều tiền nhất ở Trung Quốc vào năm 2022, gần 70 tỷ USD. Trong khi đó, doanh thu của Qualcomm – một công ty chip lớn của Mỹ – cũng phụ thuộc vào Trung Quốc tới hơn 60%.
Qualcomm, Lam Research và 4 công ty khác của Mỹ trong ngành bán dẫn cho rằng, thị trường Trung Quốc là nguồn doanh thu lớn nhất của họ vào năm ngoái, vượt qua các thị trường lớn như châu Âu, Mỹ hay Nhật Bản.
Năm 2022, tổng thương mại song phương giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới đạt mức kỷ lục 690 tỷ USD. Xuất khẩu của Washington sang Bắc Kinh cũng tăng 28% trong giai đoạn 2018-2022.
Ông Fu Fangjian, Phó Giáo sư tài chính tại Trường Kinh doanh Lee Kong Chian, Đại học Quản lý Singapore nhận định: “Trung Quốc đã phát triển thành một phần không thể thiếu của nền kinh tế toàn cầu. Đất nước này cũng là một thị trường duy nhất không thua kém nhiều so với Mỹ. Trong khi Washington cố gắng ngăn chặn việc tiếp cận công nghệ cao của Bắc Kinh thì các ‘ông lớn’ công nghệ Mỹ khó rời xa thị trường quan trọng này”.
Giám đốc điều hành Tesla Elon Musk tại Bắc Kinh ngày 31/5. (Nguồn: Nikkei Asia) |
Nỗ lực loại bỏ rủi ro
Một số chuyên gia cảnh báo rằng, sự phụ thuộc nhiều vào Trung Quốc về doanh thu có thể khiến các doanh nghiệp công nghệ Mỹ tổn thương.
Ông Abishur Prakash, Giám đốc điều hành của The Geopolitan Business, một công ty tư vấn có trụ sở tại Toronto (Canada) nhấn mạnh: “Rủi ro lớn nhất đối với các công ty công nghệ Mỹ là lệnh cấm hoàn toàn và mất khả năng bán hàng hoặc sản xuất tại Trung Quốc”.
Đối với Apple, Tesla và các nhà sản xuất chip cung cấp chất bán dẫn cho các nhà máy sản xuất thiết bị điện tử ở Trung Quốc, căng thẳng Mỹ-Trung có những tác động rất lớn.
Tháng 5, chính quyền Trung Quốc thông báo,”gã khổng lồ” chip nhớ Micron Technology của Mỹ đã không vượt qua được đánh giá bảo mật. Micron đã bị cấm bán sản phẩm cho các công ty nội địa của Trung Quốc.
Sanjay Mehrotra, Giám đốc điều hành của Micron cho biết: “Khoảng một nửa doanh thu của Micron tại Trung Quốc có nguy cơ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. ‘Cơn gió ngược’ này đang ảnh hưởng đến triển vọng phát triển và làm chậm quá trình phục hồi của chúng tôi”.
Để giảm thiểu rủi ro địa chính trị, một số công ty trong ngành công nghệ Mỹ đã bắt đầu tổ chức lại hoạt động tại Trung Quốc, nhằm nỗ lực ngăn chặn thiệt hại tiềm ẩn từ các lệnh trừng phạt.
Vào tháng 5, LinkedIn, một nền tảng truyền thông xã hội thuộc sở hữu của Microsoft, đã tuyên bố sẽ đóng cửa các ứng dụng ở Trung Quốc và cắt giảm hơn 700 vị trí làm việc. LinkedIn trích dẫn: “Sự thay đổi trong hành vi của khách hàng và tăng trưởng doanh thu chậm hơn là lý do đằng sau quyết định này”.
Cuối tháng 5, Công ty Hewlett Packard Enterprise (HPE) đã công bố kế hoạch bán cổ phần của H3C với giá 3,5 tỷ USD. H3C là doanh nghiệp bán phần cứng HPE tại Trung Quốc.
Giám đốc điều hành HPE, ông Antonio Neri cho hay: “Đây là kết quả tốt nhất cho khách hàng, nhân viên và cổ đông. Rõ ràng, hoạt động kinh doanh ở Trung Quốc ngày càng trở nên phức tạp hơn. HPE sẽ chỉ có một sự hiện diện rất nhỏ ở Trung Quốc để hỗ trợ các khách hàng đa quốc gia và sẽ tiếp tục bán các dịch vụ HPE thông qua H3C”.
Đầu tháng 6, công ty đầu tư mạo hiểm hàng đầu của Mỹ – Sequoia Capital – cũng thông báo quyết định tách rời bộ phận tại Trung Quốc. Quyết định này nhằm tái cấu trúc cơ cấu, hướng tới mục tiêu đơn giản hóa hoạt động kinh doanh của công ty.
Và trong tháng này, Amazon.com cũng tuyên bố sẽ chính thức đóng cửa hàng ứng dụng tại Trung Quốc.
Một hiện trạng mới đang hình thành
Theo đánh giá của Nikkei Asia, trước đây, các ‘nạn nhân’ trực tiếp của cuộc cạnh tranh công nghệ Mỹ-Trung hầu hết đều thuộc về phía Bắc Kinh.
Lệnh trừng phạt của Mỹ đã “giáng đòn mạnh” vào những “gã khổng lồ” công nghệ Trung Quốc, hạn chế họ tiếp cận các công nghệ quan trọng của Mỹ. Huawei và ZTE là hai doanh nghiệp lớn bị ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh.
Không chỉ thế, Washington và một số quốc gia phương Tây khác còn cấm sử dụng thiết bị 5G của Huawei và ZTE trong cơ sở hạ tầng truyền thông.
Song, giới chuyên gia nhận thấy, khi cuộc đối đầu Trung-Mỹ kéo dài và trở nên tồi tệ hơn, những hạn chế từ cả hai bên đang bắt đầu gây tổn hại cho ngành công nghiệp chủ chốt của Mỹ.
Qualcomm cho biết trong báo cáo thường niên rằng, “một phần đáng kể hoạt động kinh doanh của chúng tôi tập trung ở Trung Quốc và rủi ro của sự tập trung đó càng trầm trọng hơn do căng thẳng thương mại giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới”.
Trong khi Apple thì lưu ý: “Căng thẳng giữa Mỹ-Trung đã dẫn đến một loạt mức thuế quan mới và hạn chế kinh doanh được đưa ra. Thuế quan làm tăng giá thành các sản phẩm, linh kiện, nguyên liệu thô. Những chi phí gia này sẽ khiến tỷ suất lợi nhuận của công ty bị sụt giảm”.
Các nhà phân tích nhận thấy, cuộc đối đầu công nghệ Mỹ-Trung sẽ không sớm kết thúc.
Ông Akira Minamikawa, Giám đốc tư vấn cấp cao của công ty nghiên cứu Omdia có trụ sở tại Anh dự đoán rằng, nền kinh tế lớn nhất thế giới sẽ chỉ rút lui khi khả năng cạnh tranh công nghệ của Trung Quốc giảm sút.
Còn theo ông Prakash: “Không có hướng đi dễ dàng dành cho các doanh nghiệp tìm cách đối phó với sự cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc. Chủ các doanh nghiệp phải chấp nhận rằng, một hiện trạng mới đang hình thành”.