Sáng 21.6.2023, Quốc hội thảo luận tại hội trường về dự án Luật Đất đai (sửa đổi), đại biểu Quốc hội tỉnh Tây Ninh Huỳnh Thanh Phương đề nghị làm rõ hơn trách nhiệm cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nhưng chậm triển khai thực hiện gây thiệt hại cho người sử dụng đất, lãng phí nguồn tài nguyên đất đai.
ĐBQH Huỳnh Thanh Phương phát biểu tại hội trường.
Đại biểu Phương góp ý, một là, về nguyên tắc quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất quy định tại Điều 60, dự thảo Luật vẫn cơ cấu 9 nguyên tắc so với dự thảo lấy ý kiến nhân dân, trong đó có nguyên tắc “Bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ; quy hoạch sử dụng đất cấp trên bảo đảm nhu cầu sử dụng đất của cấp dưới”.
Tại Khoản 9 có nêu: “Các quy hoạch sử dụng đất được lập đồng thời; quy hoạch được lập, thẩm định xong trước được quyết định hoặc phê duyệt trước. Sau khi quy hoạch được quyết định hoặc phê duyệt, nếu có mâu thuẫn thì quy hoạch thấp hơn phải điều chỉnh phù hợp quy hoạch cao hơn”.
Theo đại biểu Phương, việc quy định các quy hoạch sử dụng đất được lập đồng thời để các cấp quy hoạch có sự chủ động hơn trong việc thực hiện quy hoạch của cấp mình. Tuy nhiên, để hoàn chỉnh quy hoạch, cấp dưới cũng phải chờ có quy hoạch của cấp trên đã được phê duyệt, cho dù quy hoạch của cấp dưới có được chủ động thực hiện trước thì cũng khó có thể thẩm định để phê duyệt trước, nếu chưa có quy hoạch của cấp trên.
Do đó, đại biểu Phương cho rằng, nguyên tắc này có thể gây khó khăn khi áp dụng trong thực tiễn, đề nghị sửa đổi khoản 9 theo hướng các quy hoạch sử dụng đất có thể được lập đồng thời, quy hoạch sử dụng đất cấp cao hơn phải được phê duyệt, quyết định trước quy hoạch cấp thấp hơn và cần quy định rõ hơn, chặt chẽ hơn về trách nhiệm, thời gian hoàn thành quy hoạch của các cấp quy hoạch, tránh tình trạng cấp dưới phải chờ quy hoạch của cấp trên gây kéo dài trong công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hằng năm, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích chính đáng của tổ chức, cá nhân.
Hai là, về tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất quy định tại khoản 3, khoản 4 Điều 76, trường hợp đất đã được quy hoạch nhưng chưa có kế hoạch sử dụng thì không hạn chế quyền của người sử dụng đất; trường hợp đất quy hoạch đã có kế hoạch sử dụng thì người sử dụng đất trong khu vực phải chuyển mục đích sử dụng đất và thu hồi đất sẽ bị hạn chế một số quyền nhất định như không được xây dựng mới nhà ở, công trình, trồng cây lâu năm, nếu có nhu cầu cải tạo, sửa chữa nhà ở, công trình hiện có phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép.
Đại biểu Phương cho biết, thực tế hiện nay có nhiều dự án quy hoạch nhưng chậm triển khai thực hiện, ảnh hưởng rất lớn đến quyền lợi chính đáng của người sử dụng đất. Quy định trong Dự thảo Luật cho rằng nếu đã quy hoạch nhưng chưa có kế hoạch sử dụng đất thì không hạn chế quyền của người sử dụng đất.
Tuy nhiên, thực tế nếu nhà đất vướng quy hoạch, trường hợp được phép chuyển nhượng thì cũng bị hạn chế về giá, khó giao dịch, không cho phép xây dựng, sửa chữa gây thiệt hại cho người dân, lãng phí nguồn tài nguyên đất đai.
Mặt khác, theo quy định tại khoản 5 điều này, sau 3 năm liên tục được xác định trong kế hoạch sử dụng đất hằng năm mà chưa có quyết định thu hồi đất hoặc chưa được phép chuyển mục đích sử dụng đất, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt kế hoạch sử dụng đất phải xem xét, đánh giá để tiếp tục thực hiện trong kế hoạch sử dụng đất năm tiếp theo hoặc huỷ bỏ.
Nếu có căn cứ huỷ bỏ thì quyền của người sử dụng đất có thể bị ảnh hưởng ít; nhưng trường hợp tiếp tục đưa vào kế hoạch sử dụng đất của năm tiếp theo nhưng vẫn không thực hiện được thì đến khi nào mới dừng quy hoạch, kéo dài sẽ ảnh hưởng lớn đến người sử dụng đất trong vùng được quy hoạch và có kế hoạch sử dụng đất.
Do vậy, đại biểu Phương đề nghị Ban soạn thảo làm rõ hơn về quyền của người sử dụng đất trong trường hợp đất đã được quy hoạch, đã có kế hoạch sử dụng đất và làm rõ hơn trách nhiệm cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nhưng chậm triển khai thực hiện gây thiệt hại cho người sử dụng đất, gây lãng phí nguồn tài nguyên đất đai.
Ba là, về hoà giải tranh chấp đất đai, khoản 5 Điều 233 quy định “Đối với trường hợp hoà giải tranh chấp đất đai quy định tại khoản 1, 2 và khoản 3 Điều này mà hoà giải thành và có thay đổi hiện trạng về ranh giới, diện tích, người sử dụng đất thì cơ quan, tổ chức thực hiện hoà giải gửi văn bản công nhận kết quả hoà giải thành đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thực hiện việc đăng ký, cấp giấy chứng nhận theo quy định”.
Do có nhiều cơ quan tổ chức thực hiện hoà giải, khi hoà giải thành, các cơ quan, tổ chức đó gửi văn bản công nhận kết quả đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thực hiện việc đăng ký, cấp giấy chứng nhận theo quy định là phù hợp.
Tuy nhiên, theo đại biểu Phương, trong trường hợp các bên tự hoà giải (có thể tranh chấp giữa cá nhân với cá nhân hoặc cá nhân với tổ chức), tức là không có bên thứ ba là cơ quan, tổ chức đứng ra làm trung gian hoà giải, trường hợp hoà giải thành sẽ thực hiện như thế nào? Các bên tranh chấp đã tự hoà giải có cần phải đến UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp để xác nhận về tính hợp pháp của biên bản tự hoà giải hay không? Đại biểu Phương đề nghị Ban soạn thảo có quy định rõ hơn.
Bốn là, về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai, Điều 234, Dự thảo Luật cơ bản giữ nguyên thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai như Luật Đất đai hiện hành với định hướng vẫn mở rộng quyền của người dân trong việc lựa chọn cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai trong trường hợp đất không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Việc giải quyết tranh chấp đất đai tại UBND hay TAND đều có những ưu điểm, hạn chế nhất định.
Đại biểu Phương băn khoăn, thực tế cho thấy nếu trường hợp tranh chấp đất mà đất không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không có tranh chấp tài sản gắn liền với đất thì UBND có thể giải quyết.
Trường hợp tranh chấp đất mà đất không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và có tranh chấp tài sản gắn liền với đất, nếu đương sự lựa chọn UBND giải quyết thì UBND chỉ giải quyết phần tranh chấp về đất đai, không thể giải quyết tranh chấp về tài sản gắn liền với đất nên việc giải quyết không triệt để, đương sự cũng phải khởi kiện ra Toà để giải quyết phần tranh chấp về tài sản sẽ làm kéo dài thời gian giải quyết vụ việc.
Do vậy, đại biểu Phương đề nghị Ban soạn thảo xem xét quy định bổ sung trường hợp tranh chấp đất đai mà đương sự không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và có tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì giao cho TAND giải quyết.
Ngoài ra, tại khoản 3 Điều 234 về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai, đại biểu Phương thống nhất với ý kiến thẩm tra của Uỷ ban Kinh tế Quốc hội, đồng thời đề nghị xem xét tại quy định về thủ tục đối với trường hợp các bên tranh chấp nếu không đồng ý với quyết định giải quyết của UBND cấp dưới thì làm đơn khiếu nại quyết định giải quyết đó với UBND cấp trên, không phải là gửi đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đến UBND cấp trên, điều này phù hợp với Luật Khiếu nại; nếu gửi đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp thì theo trình tự, thủ tục như thế nào?
Đồng thời, tại khoản 6 quy định: “Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc quản lý, sử dụng đất khi được Toà án nhân dân yêu cầu để làm căn cứ cho giải quyết tranh chấp”. Và theo quy định tại khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì “…
Cơ quan, tổ chức, cá nhân không thực hiện yêu cầu của Toà án mà không có lý do chính đáng thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật…”. Tuy nhiên, hiện nay không có quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi chậm hoặc không cung cấp tài liệu, chứng cứ trong việc giải quyết vụ án dân sự.
Theo đại biểu Phương, trong thực tiễn, nhiều trường hợp Toà án có văn bản yêu cầu cơ quan có liên quan cung cấp chứng cứ thì việc cung cấp thường rất chậm, khi đã hết thời hạn giải quyết vụ án mà vẫn chưa cung cấp thì Toà án phải tạm đình chỉ giải quyết chờ kết quả cung cấp tài liệu để làm căn cứ giải quyết vụ án, làm cho việc giải quyết bị kéo dài gây bức xúc cho người dân.
Do vậy, đại biểu Phương đề nghị Ban soạn thảo cần có quy định chế tài mạnh mẽ hơn về trách nhiệm của UBND, các cơ quan liên quan trong việc cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc quản lý, sử dụng đất khi được Toà án nhân dân yêu cầu để làm căn cứ cho giải quyết tranh chấp.
Thanh Trung
(lược ghi)