Toàn cảnh phiên chất vấn.
Trong không khí sôi nổi với tinh thần xây dựng, trách nhiệm, các đại biểu Quốc hội đặt câu hỏi cụ thể, ngắn gọn, trọng tâm, tích cực tranh luận làm rõ hơn vấn đề. Bộ trưởng nắm rất chắc thực trạng lĩnh vực quản lý, trả lời đầy đủ, thẳng thắn các câu hỏi và có đề xuất định hướng và phương án cụ thể để xử lý trong thời gian tới.
Lĩnh vực thu hút số lượng kỷ lục các đại biểu Quốc hội đăng ký chất vấn
Tại phiên chất vấn, Quốc hội tiến hành phiên chất vấn đối với nhóm vấn đề thuộc lĩnh vực KHCN, tập trung vào các nội dung: chiến lược phát triển KHCN quốc gia; giải pháp đẩy mạnh ứng dụng và triển khai những thành tựu, sản phẩm KHCN tiên tiến vào cuộc sống. Việc ứng dụng công nghệ cao phục vụ phát triển kinh tế – xã hội, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp. Việc bố trí, quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước chi cho nghiên cứu khoa học thời gian qua, việc quản lý, sử dụng quỹ phát triển KHCN quốc gia. Hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học ra thị trường của các đơn vị nghiên cứu, viện, trường, đơn vị sự nghiệp công lập. Cơ chế, chính sách khuyến khích tư nhân đầu tư nghiên cứu và ứng dụng KHCN. Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quỹ phát triển KHCN của DN.
Phát biểu kết luận nội dung phiên chất vấn, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cho biết trong phiên chất vấn đã có số lượng kỷ lục đại biểu Quốc hội đăng ký chất vấn. Đã có 32 đại biểu tham gia chất vấn với 20 đại biểu tham gia đặt câu hỏi và 12 đại biểu tranh luận. Còn 92 đại biểu đăng ký chất vấn và 3 đại biểu đăng ký tranh luận nhưng do hết thời gian nên chưa chất vấn và phát biểu, Chủ tịch Quốc hội đề nghị các đại biểu gửi câu hỏi đến Bộ trưởng để trả lời bằng văn bản theo quy định.
Chủ tịch Quốc hội ghi nhận phiên chất vấn diễn ra sôi nổi với tinh thần xây dựng, trách nhiệm. Các đại biểu Quốc hội đặt câu hỏi cụ thể, ngắn gọn, trọng tâm; một số đại biểu tích cực tranh luận làm rõ hơn vấn đề chất vấn. Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt giữ cương vị Tư lệnh ngành KHCN từ cuối nhiệm kỳ khóa XIV (từ Kỳ họp thứ 10), nhưng đây là lần đầu tiên đăng đàn trả lời chất vấn trước Quốc hội. Là một nhà khoa học và cũng từng lãnh đạo Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh – một trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học lớn của nước ta, Bộ trưởng nắm rất chắc thực trạng lĩnh vực quản lý, càng trả lời càng hay hơn, tự tin hơn và trả lời đầy đủ, thẳng thắn các câu hỏi của đại biểu Quốc hội, có đề xuất định hướng và phương án cụ thể để xử lý trong thời gian tới.
Cùng tham gia trả lời, giải trình làm rõ thêm các vấn đề liên quan đến lĩnh vực KHCN có: Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà; Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Triển khai tích cực Chiến lược phát triển KHCN và đổi mới sáng tạo
Chủ tịch Quốc hội cho biết, qua báo cáo và diễn biến của phiên chất vấn này cho thấy thời gian qua, với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, sự quyết tâm, nỗ lực, trách nhiệm ngành KHCN đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ phát biểu kết luận nội dung chất vấn.
Chủ tịch Quốc hội chỉ rõ, chiến lược phát triển KHCN giai đoạn 2011 – 2020 được triển khai tích cực đã hoàn thành 8/11 mục tiêu quan trọng; đã ban hành và tổ chức thực hiện Chiến lược phát triển KHCN và đổi mới sáng tạo đến năm 2030. Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh đây là bước đột phá có ý nghĩa quan trọng, tạo bứt phá trong nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Cùng với đó, hành lang pháp lý về phát triển KHCN ngày càng được hoàn thiện, với việc ban hành Luật KHCN, Luật Chuyển giao công nghệ và Luật Sở hữu trí tuệ… theo hướng lấy DN làm trung tâm, là chủ thể, là đối tượng ưu tiên hỗ trợ của hoạt động KHCN và đổi mới sáng tạo.
Tỷ trọng đầu tư giữa Nhà nước và DN cho KHCN được cải thiện theo hướng tích cực. Các DN ngày càng quan tâm hơn đến hoạt động KHCN và đổi mới sáng tạo. Chủ tịch Quốc hội cho biết thêm, đã có những tập đoàn đã tổ chức những giải như Vin Future, trung tâm nghiên cứu phát triển lớn nhất Đông Nam Á của Samsung đặt tại Hà Nội và nhiều tập đoàn, tổng công ty khác đã dành cho nghiên cứu KHCN một chi phí rất lớn. Đồng thời, hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo bắt đầu hình thành và phát triển. Hiện nay đã có khoảng hơn 3.000 DN khởi nghiệp sáng tạo tại Việt Nam.
Công tác nghiên cứu khoa học được đẩy mạnh, khoa học cơ bản đạt nhiều thành tựu, KHCN ứng dụng có những bước tiến rõ nét, chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam năm 2022 xếp thứ 48/132 quốc gia và vùng lãnh thổ, xếp thứ 4 trong khu vực Đông Nam Á. Hệ thống các tổ chức KHCN phát triển mạnh, đội ngũ nhân lực KHCN tăng cả về số lượng và chất lượng. Trong đó, có nhiều nhà khoa học có uy tín được thế giới công nhận.
Chủ tịch Quốc hội cho biết, thúc đẩy phát triển thị trường KHCN, đẩy nhanh việc chuyển giao và ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn được chú trọng, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Chủ tịch Quốc hội chỉ rõ, xuất khẩu đã đạt đến 53,2 tỷ USD vào năm 2022, hướng đến xuất khẩu là 55 tỷ USD trong thời gian tới. Việt Nam đã làm chủ, áp dụng thành công nhiều công nghệ sản phẩm có giá trị kinh tế cao, đem lại hiệu quả to lớn. Tỷ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa đã tăng từ 19% vào năm 2010 lên khoảng 50% năm 2020.
Còn nhiều điểm nghẽn, vướng mắc trong việc đưa kết quả nghiên cứu vào sản xuất, kinh doanh
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc, hạn chế trong việc phát triển và phát huy vai trò then chốt của KHCN. Theo đó, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật còn thiếu đồng bộ, nhất là các quy định liên quan đến ứng dụng công nghệ cao còn chậm được ban hành, quy định hướng dẫn phân bổ, sử dụng ngân sách nhà nước cho nhiệm vụ KHCN còn phức tạp và thiếu ổn định, còn nhiều điểm nghẽn, vướng mắc trong việc đưa kết quả nghiên cứu vào sản xuất, kinh doanh.
Thị trường KHCN phát triển còn chậm, còn có ít tổ chức trung gian uy tín, kinh nghiệm để kết nối cung cầu, các viện và trường công lập chưa chú trọng thực hiện quy định về quản lý, khai thác tài sản trí tuệ và thương mại hóa kết quả nghiên cứu còn gặp nhiều khó khăn.
Hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia đang trong giai đoạn hình thành, chưa đồng bộ và hiệu quả, DN chưa thực sự là trung tâm đóng vai trò quyết định cho đổi mới sáng tạo, năng lực kết nối giữa viện nghiên cứu, trường đại học với DN chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.
Phát triển các loại hình khu công nghệ cao chưa đạt như kỳ vọng. Ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất công nghiệp, nhất là công nghiệp điện tử chưa bền vững, ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp mới chỉ tập trung tại một số vùng sản phẩm có thế mạnh và một số DN lớn. 05 khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đã được thành lập nhưng triển khai xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật còn chậm, chưa hoạt động đầy đủ.
Chủ tịch Quốc hội cho biết nguyên nhân của thực trạng này xuất phát từ nhiều lí do như Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã trao đổi. Đồng tình với quan điểm của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về lĩnh vực phát triển các khu nông nghiệp công nghệ cao, Chủ tịch Quốc hội đề nghị trong thời gian tới, Bộ tham mưu cho Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ để chúng ta tiếp tục triển khai như định hướng đã nêu.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan tham gia trả lời chất vấn làm rõ vấn đề đại biểu Quốc hội quan tâm.
Chính sách chưa thực sự đi vào cuộc sống
Chủ tịch Quốc hội cho biết, Quỹ Phát triển KHCN quốc gia, Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia có mục tiêu thu hút thêm nguồn lực đầu tư từ xã hội nhưng hiện nay vẫn hoàn toàn dựa vào ngân sách nhà nước. Chức năng cho vay, bảo lãnh vốn vay Quỹ Phát triển KHCN quốc gia không phù hợp với mô hình đơn vị sự nghiệp công. Quy định về trích lập, sử dụng Quỹ Phát triển KHCN của DN còn vướng mắc và bất cập, hiệu quả còn thấp.
Tổng đầu tư xã hội cho KHCN và đổi mới, sáng tạo còn thấp, đầu tư còn dàn trải, hiệu quả đầu tư chưa cao. Các chính sách khuyến khích DN đầu tư cho KHCN và đổi mới sáng tạo chưa thực sự đi vào cuộc sống. Tỷ trọng đầu tư cho KHCN giữa Trung ương và địa phương; giữa đầu tư phát triển và chi sự nghiệp; giữa nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng còn chưa hợp lý.
Cùng với đó, đội ngũ cán bộ KHCN tuy có tăng về số lượng nhưng thiếu các nhà khoa học đầu ngành; cơ chế đãi ngộ chưa tương xứng; cơ sở vật chất, kỹ thuật, trang thiết bị cho hoạt động KHCN còn thiếu, chưa đồng bộ. Số lượng đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hóa và kiểu dáng công nghiệp còn tồn đọng lớn.
Tháo gỡ các rào cản về hệ thống pháp luật, chính sách kinh tế, tài chính, đầu tư, thủ tục hành chính
Chủ tịch Quốc hội đề nghị qua phiên chất vấn, Chính phủ, Bộ trưởng Bộ KHCN, các Bộ trưởng có liên quan tiếp thu tối đa ý kiến góp ý của đại biểu Quốc hội, chỉ đạo quyết liệt thực hiện các giải pháp đề ra nhằm khắc phục tồn tại, hạn chế.
Chủ tịch Quốc hội lưu ý tập trung vào một số vấn đề chính. Theo đó, thực hiện có hiệu quả Chiến lược phát triển KHCN và đổi mới, sáng tạo đến năm 2030. Triển khai đồng bộ các chương trình KHCN quốc gia đến năm 2030. Tiếp tục thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng và đồng bộ hóa các quy định pháp luật, chính sách của nhà nước về phát triển KHCN và đổi mới, sáng tạo.
Rà soát, sửa đổi, bổ sung, tháo gỡ các rào cản về hệ thống pháp luật, chính sách kinh tế, tài chính, đầu tư, thủ tục hành chính theo hướng phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế. Tôn trọng đặc thù của lao động sáng tạo; chấp nhận rủi ro, mạo hiểm và độ trễ trong hoạt động KHCN và đổi mới, sáng tạo. Dỡ bỏ các rào cản duy ý chí và hành chính hóa hoạt động KHCN và đổi mới, sáng tạo. Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện các quy định về giao nhiệm vụ, vấn đề đặt hàng hoặc đấu thầu, đặc biệt là thủ tục thanh, quyết toán các khoản chi về KHCN. Nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù vượt trội để KHCN và đổi mới sáng tạo thực sự là đột phá chiến lược, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Đổi mới tư duy và trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho tổ chức KHCN công lập nhằm tăng cường trách nhiệm, nâng cao tính chủ động, sáng tạo của tổ chức. Có giải pháp để các trường đại học thực sự trở thành trung tâm nghiên cứu khoa học và là trung tâm đào tạo đội ngũ nhân lực KHCN, đổi mới sáng tạo trình độ cao. Có cơ chế phù hợp, khuyến khích nhà khoa học tại viện nghiên cứu, trường đại học, tổ chức KHCN dành thời gian nghiên cứu, làm việc tại DN, mở rộng hợp tác quốc tế nhằm hỗ trợ một số lĩnh vực KHCN đã đạt được trình độ quốc tế.
Bộ trưởng Bộ KHCN Huỳnh Thành Đạt tại phiên chất vấn.
Chú trọng hơn nữa việc xác lập quyền sở hữu công nghiệp, công nhận đăng ký lưu hành sản phẩm mới, công nghệ mới, công bố công nghệ mới, sản phẩm mới tạo ra tại Việt Nam. Từ kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, tăng cường năng lực để giải quyết kịp thời các số lượng đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hóa và kiểu dáng công nghiệp còn tồn đọng. Triển khai xây dựng đề án thí điểm chính sách tạo động lực thương mại hóa, đưa nhanh kết quả nghiên cứu tài sản trí tuệ được tạo ra từ ngân sách nhà nước vào sản xuất và kinh doanh.
Giải phóng tối đa nguồn lực cho phát triển KHCN và đổi mới sáng tạo
Tăng đầu tư từ ngân sách nhà nước cho KHCN đảm bảo 2% chi ngân sách nhà nước trở lên. Làm rõ nội dung này, Chủ tịch Quốc hội cho biết, đây là vấn đề không phải Nhà nước không chi cho KHCN mà vấn đề là phải có đề án, có công trình, có dự án, có những đề xuất khả thi thì mới đảm bảo. Mặt khác, hiện nay mới chi được 0,64% là chi sự nghiệp, chưa tính toán được chi cho hoạt động đầu tư.
Chủ tịch Quốc hội nêu rõ, qua phiên chất vấn, cho thấy vấn đề chuẩn bị các nhiệm vụ chi, đặc biệt là các dự án đầu tư liên quan đến KHCN là nhiệm vụ rất quan trọng. Hàng năm, Quốc hội xem xét và quan tâm đến nội dung này trên cơ sở đề nghị của Chính phủ liên quan đến bố trí kinh phí KHCN cho cả Trung ương, địa phương. “Chúng ta không có tiếc chi phí này, miễn làm sao chi đúng mục tiêu và mang lại hiệu quả, đóng góp thực sự cho việc nâng cao năng suất lao động, hiệu quả của nền kinh tế”, Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh.
Cùng với đó, xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích DN tăng cường đầu tư cho KHCN và đẩy mạnh liên kết với các tổ chức nghiên cứu KHCN trong, ngoài nước, các DN nước ngoài. Hoàn thiện cơ chế đối tác công tư hành lang pháp lý cho các quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ đầu tư cộng đồng và các nền tảng công nghệ số, huy động vốn đầu tư nhằm huy động thêm nguồn lực đầu tư cho KHCN và đổi mới sáng tạo.
Nghiên cứu cho phép thử nghiệm có kiểm soát chính sách mới, thúc đẩy ứng dụng sản phẩm, dịch vụ mô hình kinh doanh mới, có giải pháp đồng bộ, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm của DN ứng dụng công nghệ cao, như: Hỗ trợ đổi mới, làm chủ, chuyển giao ứng dụng công nghệ cao, công nghệ tiên tiến; khai thác sáng chế quyền sở hữu trí tuệ, thông tin về KHCN.
Rà soát về sự cần thiết, hiệu quả và vướng mắc, bất cập trong đầu tư các khu nông nghiệp công nghệ cao, tiếp tục hoàn thiện quy định về các khu công nghệ cao, tiếp tục nghiên cứu, tham mưu giải pháp thúc đẩy phát triển các loại hình khu chức năng.
Sớm hoàn thiện hành lang pháp lý về Quỹ KHCN quốc gia. Trong đó, nghiên cứu, rà soát để đề xuất sửa đổi các quy định pháp luật liên quan như: Luật KHCN năm 2013, Luật Ngân sách nhà nước năm 2015, Nghị định số 95/2014/NĐ-CP của Chính phủ, giải quyết hiệu quả hơn các vướng mắc để giải phóng tối đa nguồn lực từ Quỹ Phát triển và KHCN của DN theo tinh thần Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội, tạo điều kiện cho DN thúc đẩy nghiên cứu phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa các dịch vụ KHCN, nhất là dịch vụ tư vấn, môi giới, đánh giá, thẩm định và giám định công nghệ các dịch vụ sở hữu trí tuệ và tiêu chuẩn đo lường chất lượng. Thúc đẩy hoạt động truyền thông về vai trò KHCN, tăng cường hỗ trợ DN, nâng cao khả năng tiếp cận thông tin công nghệ trong nước và quốc tế.
Theo quochoi.vn