Vài năm trở lại đây, cùng với sự phát triển kinh tế đặc biệt là du lịch đã dẫn đến nguồn nước ngầm phục vụ sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp của đảo Lý Sơn hiện đang cạn kiệt dần. Theo UBND huyện Lý Sơn, tình trạng nước nhiễm mặn đã lan rộng toàn đảo Lý Sơn khiến 325ha diện tích đất nông nghiệp và hơn 22.000 dân trên đảo phải chịu cảnh “khát” nước ngọt. Theo kết quả quan trắc, hiện trên địa bàn đảo Lý Sơn, tính độ sâu từ 25- 38 m trở xuống, nước dưới đất đã bị nhiễm mặn hoàn toàn; theo chiều ngang thì tình trạng xâm nhập mặn đã ăn sâu trung tâm đảo 2km.
Thôn Tây An Vĩnh là khu vực chịu nhiễm mặn nặng nhất trên đảo với gần 1.300 hộ thiếu nước sinh hoạt trầm trọng. Để có nước ăn uống hằng ngày, nhiều hộ gia đình phải xử lý nước nhiễm mặn bằng máy lọc nước hoặc mua nước đóng bình về dùng.
Toàn huyện có một hồ chứa nước là hồ Thới Lới, 2 công trình cấp nước sinh hoạt tập trung. Năm 2014 chỉ có 546 giếng, thì nay đã lên tới 2.149 giếng (mật độ hơn 210 giếng/km2). Số lượng giếng nước càng tăng thì đảo Lý Sơn lại càng khát.
Lượng nước ngầm trên đảo Lý Sơn sụt giảm và nhiễm mặn đang gây nhiều khó khăn cho sản xuất, sinh hoạt của người dân. Bà Phạm Thị Trường (huyện Lý Sơn) cho biết: “Mấy cái giếng đào đã cạn nước, một số nhiễm mặn nên tôi phải chuyển đổi từ trồng hành sang trồng bắp để tiết kiệm nước vào mùa hè. Thế nhưng, nước cũng không đủ để duy trì cho cây phát triển. Một số người dân không có giếng thì phải đi nhờ nước từ các giếng của các hộ lân cận, trung bình họ phải trả khoảng 120.000 đồng/giờ để chạy nước tưới cho đồng ruộng”.
Năm 2016, tỉnh Quảng Ngãi cấm đào, khoan giếng mới để bảo vệ túi nước ngọt trên đảo Lý Sơn. Bất cứ tổ chức, cá nhân nào muốn khoan giếng đều phải xin phép. Tuy nhiên, tình trạng khoan giếng trái phép vẫn tiếp tục tái diễn. Hằng năm, chính quyền địa phương phát hiện, xử phạt nhiều trường hợp lén lút khoan giếng lấy nước trồng hành, tỏi.
Mới đây, ông Đặng Văn Minh, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi đã trực tiếp kiểm tra dự án hệ thống trữ nước sinh hoạt kết hợp tưới tiết kiệm cho nông nghiệp đảo Lý Sơn. Dự án có mức đầu tư 75 tỷ đồng. Trong đó, vốn ngân sách Trung ương 45 tỷ đồng. Thời gian thực hiện từ năm 2017 đến năm 2020. Quy mô đầu tư xây dựng các hạng mục như bể chứa, kênh thu gom nước, hệ thống đường ống cấp nước, nhà quản lý. Dự án được thực hiện đến tháng 4 năm 2020 đạt khoảng 21% khối lượng.
Tuy nhiên, hiện dự án đang tạm dừng thi công. Nguyên nhân là do bể chứa nước 2A tại chân núi Giếng Tiền, nằm trong khu vực bảo vệ II của di tích thắng cảnh núi Giếng Tiền. Hiện huyện Lý Sơn đang chờ phê duyệt của Đồ án Quy hoạch phân khu tỷ lệ 1/2000 theo quyết định điều chỉnh tổng thể Quy hoạch chung xây dựng Khu kinh tế Dung Quất để có cơ sở cập nhật cho dự án, tiến hành làm các bước điều chỉnh dự án.
Qua kiểm tra, ông Minh yêu cầu huyện Lý Sơn phải có báo cáo tổng thể, toàn diện và làm rõ trách nhiệm của đơn vị tư vấn trong quá trình khảo sát, lập dự án. Sau khi có báo cáo giải trình của đơn vị tư vấn, huyện Lý Sơn có báo cáo nhận rõ trách nhiệm của cơ quan, đơn vị trước UBND tỉnh, chậm nhất trước ngày 30/5/2023. Đồng thời, giao Sở Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các sở, ngành rà soát toàn bộ dự án, tham mưu Chủ tịch UBND tỉnh để giải quyết vướng mắc của dự án theo hướng kết thúc dự án hoặc điều chỉnh thời gian và mục tiêu thực hiện dự án.
Theo tính toán của ngành chức năng tỉnh Quảng Ngãi, với hơn 10km2 diện tích lưu vực, ước tổng lượng nước mưa trên đảo khoảng 9 triệu m3/năm. Nếu trừ lượng nước thấm vào đất và bốc hơi, lượng nước mưa còn lại khoảng 3 triệu m3 chảy tràn ra bề mặt, sau đó đổ ra biển. Trong khi đó, nhu cầu sử dụng nước cho khoảng 70% hộ gia đình và phục vụ phần diện tích sản xuất nông nghiệp còn lại (khoảng 200ha) cần hơn 1 triệu m3.
Ông Võ Quốc Hùng, Phó giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Quảng Ngãi, cho rằng, giải pháp khả thi nhất là đầu tư xây dựng hệ thống kênh xung quanh đảo, để thu gom nước mặt vào các bể trữ tập trung với tổng kinh phí đầu tư khoảng 250 tỷ đồng.
Sau khi việc đầu tư xây dựng hệ thống thu gom và bể chứa hoàn thành, số nước ngọt này (1 triệu m3) dự kiến sử dụng cho sản xuất nông nghiệp, chế biến thủy sản khoảng 600.000 m3, phần còn lại (khoảng 400.000 m3) thông qua hệ thống xử lý phục vụ sinh hoạt và phát triển dịch vụ, du lịch