Ngũ trò Viên Khê ở làng cổ Viên Khê, xã Đông Anh, huyện Đông Sơn (Thanh Hóa) mang đặc trưng văn hóa nông nghiệp ở vùng châu thổ sông Mã với những lời ca giản dị, chân thực, được các thế hệ cha ông sáng tạo trong quá trình lao động sản xuất và được các thế hệ chắt chiu, chọn lọc và trao truyền cho đến ngày nay.
Ngũ trò Viên Khê hay còn gọi là dân ca, dân vũ Đông Anh là hệ thống các trò diễn xướng đi kèm các bài dân ca, lưu hành chủ yếu ở thôn Viên Khê, xã Đông Anh, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa phản ánh đời sống sinh hoạt và tâm tư, tình cảm của người nông dân xưa.
Các trò diễn ngũ trò Viên Khê ban đầu có 5 trò nhưng về sau do tiếp biến văn hóa nên trò diễn dân ca, dân vũ Đông Anh có đến 12 trò như: Múa đèn, Tiên Cuội (hay Tiên phường), Tô Vũ, Trống Mõ, Thiếp, Vằn vương (hay trò Hùm), Thủy (hay Thủy phường), Leo dây, Xiêm Thành (hay Chiêm Thành/Sim Thành), Hà Lan (hay Hoa Lang), Tú Huần (hay Lục Hồn Nhung), Ngô quốc. Ngoài ra ở Đông Anh còn có một số trò nữa như trò Đại Thánh, trò Nữ quan…
Tương truyền rằng, người con trai cả của Hoàng đế (Thái thú) Lê Ngọc, tên Lãng Đại Vương là thủy tổ của các trò chơi, trò diễn. Tục truyền rằng, Lãng Đại Vương về tận thôn, xóm để chung vui với nhân dân, từ đó các điệu múa được truyền dạy và phổ biến cho mọi người (từ thế kỷ V-VII).
Theo các cụ cao niên nơi đây kể lại rằng, những điệu múa, điệu hát được lưu truyền đến ngày nay có từ thế kỷ XI từ thời triều Lý, nhưng chưa được dàn dựng thành màn trình diễn mà người dân chỉ hát vào những lúc lao động mệt nhọc trên đồng hay những ngày mùa xuân đi trẩy hội. Cuối thế kỷ XIV đầu XV, ở tổng Thạch Khê có ông Nguyễn Mộng Tuân đỗ Tiến sĩ vào cuối triều Trần. Trong một lần về thăm quê, ông đã thấy có những điệu múa hát rất hay nhân đó đã cùng bà con sáng tác ra 12 trò múa hát.
Biểu diễn trò Tiên cuội trong trong ngũ trò Viên Khê ở làng cổ Viên Khê, xã Đông Anh, huyện Đông Sơn (Thanh Hóa).
Từ đó trở đi, vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu trong chu kỳ giáp hạt, các làng của tổng Tuân Hóa, Thạch Khê, Quảng Chiếu (nay thuộc các xã Đông Anh, Đông Thịnh, Đông Khê, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa) đều tổ chức trò diễn và chấm điểm để đi thi tại lễ hội Nghè Sâm làng Viên Khê với quy mô rất lớn, thu hút đông đảo người dân trong vùng cùng về tham dự với định kỳ ba năm một lần vào các năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi.
Nội dung của các trò diễn là lời hát đi cùng vũ điệu để hình thành một làn điệu dân ca riêng và hết sức đặc sắc của cư dân vùng châu thổ sông Mã. Đặc biệt hơn, so với các hình thức diễn xướng dân gian khác thì dân ca, dân vũ Đông Anh đã có kịch bản và tích truyện khá phong phú về nội dung.
Trong các trò diễn thì trò Múa Đèn hội tụ tương đối đầy đủ các giá trị tinh túy của dân ca, dân vũ Đông Anh. Bởi Đông Anh là nơi làm lúa nước, để tạo tinh thần thoải mái, hăng say lao động sản xuất và lưu truyền kinh nghiệm người dân đã sáng tạo ra những lời ca, tiếng hát gắn liền với từng hoạt động sản xuất nông nghiệp, từ thời điểm gieo mạ đến vào vụ gặt rồi thời điểm nông nhàn. Hay kinh nghiệm sản xuất “tay cầm nắm trấu mà tung ra, trấu nát ra tro, thịt nát ra giò, đậu nát ra tương” và trồng trọt hiệu quả theo mùa “thấp thoáng bóng ngọn đèn quay, đồng sâu cấy lúa, đồng cạn làm màu”.
Ngọn đèn trong trò diễn là vật gắn liền với cư dân nông nghiệp xưa, nó được người dân đưa vào cùng các điệu múa làm biểu tượng cho sự chuyển dịch của thời gian trong năm, là biểu tượng của ánh sáng mang lại sự sinh sôi, nảy nở cho vạn vật và ẩn chứa khát vọng về một cuộc sống ấm no, hạnh phúc của con người. Những cô gái lứa tuổi mười tám, đôi mươi, chưa chồng, trên đầu đội đèn cùng với những động tác cơ thể múa hát uyển chuyển song không được để đèn đổ hay rơi xuống. Vì thế yêu cầu về kĩ thuật là rất khó, có lẽ vì cái hay, cái đẹp, cái giản dị mà ý nghĩa nên trò Múa Đèn được trình diễn nhiều và được lưu truyền phổ biến qua các thế hệ.
Không chỉ phản ánh quá trình, kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp mà những ước nguyện và khao khát của người dân như, cầu mưa, cầu nắng, chống chọi với thiên nhiên, thiên tai, dịch bệnh, thú dữ nhằm bảo vệ sản xuất nông nghiệp và duy trì sự sinh sôi, nảy nở của con người, động vật cũng được người dân sáng tạo thể hiện sinh động, chân thực, gần gũi với đời sống qua các trò: Vằn Vương, Trò Thủy, Trống Mõ, Tiên Cuội…
Trải qua thời gian, hệ thống trò diễn bị mai một dần nhất là từ cuối kháng chiến chống thực dân Pháp đến trước năm 1975 chiến tranh xảy ra ác liệt, đời sống khó khăn, người dân các làng của xã Đông Anh không còn thời gian để tổ chức lễ hội và trình diễn các làn điệu dân ca, dân vũ của quê hương mình.
Từ sau năm 1975, đất nước thống nhất, đời sống vật chất, tinh thần của người dân dần được cải thiện, nhu cầu sinh hoạt văn hóa, tinh thần của người dân ở các làng, xã được đặt ra. Vấn đề bảo tồn, gìn giữ các giá trị tinh thần của cha ông để lại đã trở thành một nội dung quan trọng trong phát triển kinh tế địa phương. Đến năm 2000, Viện âm nhạc quốc gia Việt Nam và ngành Văn hóa thể thao và Du lịch tỉnh Thanh Hóa đã sưu tầm, nghiên cứu, khôi phục được 11 trò diễn.
Biểu diễn trò Múa đèn Viên Khê tại khu di tích lịch sử Lam Kinh, đất phát tích của nhà Hậu Lê ở huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
Năm 2014, tỉnh Thanh Hóa đã có Quyết định phê duyệt kế hoạch lập hồ sơ khoa học di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu của tỉnh Thanh Hóa trong đó có trò diễn dân ca, dân vũ Đông anh được đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia. Năm 2017, ngũ trò Viên Khê đã được Văn hóa thể thao và Du lịch công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Nguồn: https://danviet.vn/ngu-tro-dan-ca-dong-anh-o-thanh-hoa-la-cac-tro-gi-ma-duoc-cong-nhan-di-san-phi-vat-the-quoc-gia-20241216112206856.htm