[sapo]
Chiều 28/10, tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phan Văn Giang trình bày tờ trình về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số nội dung gồm: Chức vụ cơ bản và chức vụ, chức danh tương đương của sĩ quan; Hạn tuổi phục vụ tại ngũ cao nhất của sĩ quan; cấp bậc quân hàm cao nhất đối với chức vụ, chức danh của sĩ quan.
Ngoài ra còn quy định một số nội dung liên quan đến thẩm quyền và quy định rõ hơn một số chế độ, chính sách đối với sĩ quan, như thăng quân hàm, nâng lương trước thời hạn, chế độ bảo hiểm xã hội, chế độ nhà ở, đất ở, chăm sóc sức khỏe,trách nhiệm của Chính phủ, bộ, ngành, địa phương…
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phan Văn Giang trình bày Tờ trình dự án Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam. Ảnh: QH |
Đề xuất nâng tuổi nghỉ hưu của sĩ quan quân đội
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng cho hay, dự thảo luật sửa đổi, bổ sung quy định tuổi phục vụ của sĩ quan tại ngũ và sĩ quan dự bị tại Điều 13 và Điều 38.
Cụ thể, với cấp úy, hạn tuổi cao nhất của sĩ quan tại ngũ (tuổi nghỉ hưu) tăng từ 46 tuổi lên 50 tuổi. Thiếu tá từ 48 tuổi lên 52 tuổi. Trung tá từ 51 tuổi lên 54 tuổi. Thượng tá từ 54 lên 56 tuổi. Đại tá từ 57 tuổi (đối với nam) và 55 tuổi (đối với nữ) lên 58 tuổi (không phân biệt nam, nữ).
Cấp tướng vẫn giữ nguyên là 60 tuổi đối với nam, đối với nữ tăng từ 55 tuổi lên 60 tuổi.
Dự thảo luật cũng quy định, khi quân đội có nhu cầu, sĩ quan có đủ phẩm chất về chính trị, đạo đức, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, sức khỏe tốt và tự nguyện thì có thể được kéo dài tuổi phục vụ tại ngũ không quá 5 năm.
Sĩ quan là giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, bác sĩ chuyên khoa 2, dược sĩ chuyên khoa 2, tổng công trình sư, nhà khoa học đầu ngành, sĩ quan được đào tạo chuyên sâu, đặc thù hoặc trường hợp đặc biệt có thể kéo dài hơn theo quy định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Về tuổi nghỉ hưu của sĩ quan dự bị (gồm những sĩ quan thuộc lực lượng dự bị động viên được đăng ký, quản lý, huấn luyện để sẵn sàng huy động vào phục vụ tại ngũ) cũng được đề xuất tăng lên.
Cụ thể, tuổi nghỉ hưu của cấp úy sĩ quan dự bị tăng từ 51 lên 53 tuổi. Thiếu tá từ 53 lên 55 tuổi. Trung tá từ 56 lên 57 tuổi. Thượng tá từ 57 lên 59 tuổi. Đại tá từ 60 lên 61 tuổi. Cấp tướng giữ nguyên mức 63 tuổi.
Với chỉ huy trưởng ban chỉ huy quân sự cấp xã hạn tuổi phục vụ cao nhất thực hiện theo quy định của bộ luật Lao động.
Thẩm tra nội dung này, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng An ninh Lê Tấn Tới cho biết, Ủy ban cơ bản nhất trí với việc sửa đổi theo hướng nâng hạn tuổi phục vụ tại ngũ theo cấp bậc quân hàm cao nhất của sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam các mức khác nhau. Việc tăng tuổi nghỉ hưu bảo đảm phù hợp với chủ trương của Đảng và thống nhất với quy định của Bộ luật Lao động năm 2019.
Chủ nhiệm Lê Tấn Tới cũng cho biết, có ý kiến trong cơ quan thẩm tra đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo xem xét điều chỉnh tuổi nghỉ hưu của sĩ quan nữ cấp bậc quân hàm đại tá để phù hợp với quy định của Bộ luật Lao động và Luật Bảo hiểm xã hội, đảm bảo bình đẳng giới và tận dụng nguồn nhân lực nữ có trình độ, kinh nghiệm trong quân đội.
Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh, Trung tướng Lê Tấn Tới trình bày Báo cáo thẩm tra dự án Luật. Ảnh: QH |
Giữ nguyên số lượng tối đa 415 cấp tướng
Với cấp bậc hàm cao nhất đối với chức vụ của sĩ quan, dự thảo luật đề xuất, cấp quân hàm đại tướng số lượng không quá 3, bao gồm các chức vụ: Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị.
Thượng tướng, Đô đốc Hải quân, số lượng không quá 14, gồm: Thứ trưởng Bộ Quốc phòng có cấp bậc quân hàm cao nhất là thượng tướng, Đô đốc Hải quân không quá 6; Phó Tổng Tham mưu trưởng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, mỗi chức vụ có cấp bậc quân hàm cao nhất là thượng tướng không quá 3. Ngoài ra, còn có Giám đốc, Chính ủy Học viện Quốc phòng.
Các chức vụ, chức danh có cấp bậc quân hàm cao nhất là trung tướng, Phó Đô đốc Hải quân, Thiếu tướng, Chuẩn Đô đốc Hải quân; số lượng không quá 398.
Tổng số cấp bậc hàm cao nhất là cấp tướng tối đa là 415, giữ nguyên theo như luật hiện hành.
Các chức vụ, chức danh từ Phó Tư lệnh, Phó Chính ủy Binh chủng; Phó Tư lệnh, Phó Chính ủy Vùng Hải quân, tới Trung đội trưởng (quy định từ điểm h tới điểm r, điều 11 của luật về chức vụ của sĩ quan), có cấp bậc quân hàm cao nhất là cấp tá, cấp úy.
Dự thảo luật cũng đề nghị, sĩ quan quân đội biệt phái được phê chuẩn giữ chức vụ Ủy viên thường trực Ủy ban Quốc phòng An ninh của Quốc hội hoặc được bổ nhiệm chức vụ Tổng cục trưởng hoặc tương đương có cấp bậc quân hàm cao nhất là thiếu tướng.
Sĩ quan Quân đội nhân dân biệt phái được phê chuẩn giữ chức vụ Phó Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội hoặc được bổ nhiệm chức vụ thứ trưởng hoặc tương đương có cấp bậc quân hàm cao nhất là Trung tướng.
Sĩ quan Quân đội nhân dân biệt phái được phê chuẩn giữ chức vụ Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội có cấp bậc quân hàm cao nhất là Thượng tướng.
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đề nghị Quốc hội giao Chính phủ quy định cụ thể vị trí có bậc quân hàm cao nhất là trung tướng, thiếu tướng và cấp bậc quân hàm cao nhất đối với chức vụ, chức danh của sĩ quan là cấp tướng của đơn vị thành lập mới, đơn vị được tổ chức lại.
Cơ quan thẩm tra là Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội cơ bản nhất trí với quy định về cấp bậc hàm cao nhất đối với chức vụ của sĩ quan trong dự thảo luật. Việc này không vượt quá số lượng tối đa vị trí cấp tướng theo quyết định của cấp có thẩm quyền. Tuy nhiên, Chủ nhiệm Ủy ban An ninh Quốc phòng Lê Tấn Tới cho hay, có ý kiến trong cơ quan thẩm tra đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu quy định cụ thể số lượng cấp bậc quân hàm trung tướng, thiếu tướng làm căn cứ giao Chính phủ quy định chi tiết.
Cũng có ý kiến đề nghị rà soát vị trí sĩ quan biệt phái có trần quân hàm cấp tướng cho phù hợp với quy định tổng số sĩ quan cấp tướng tại ngũ trong quân đội nhân dân không quá 415./.
Nguồn: https://dangcongsan.vn/thoi-su/de-xuat-nang-tuoi-nghi-huu-cua-si-quan-quan-doi-681718.html