Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế thế giới và khu vực phát triển mạnh mẽ, hệ thống cửa khẩu biên giới đất liền hiện nay vẫn còn nhiều tồn tại. Một số cửa khẩu đã được đầu tư nâng cấp đáng kể, nhưng đa phần cơ sở hạ tầng tại các cửa khẩu phụ và lối mở vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu giao thương hiện tại. Điều này đã gây ra nhiều hạn chế, không chỉ đối với hoạt động xuất nhập khẩu mà còn làm giảm khả năng kết nối kinh tế của các khu vực biên giới.

Mặc dù số lượng cửa khẩu biên giới đất liền của Việt Nam đã được mở rộng đáng kể, hệ thống này vẫn tồn tại nhiều vấn đề cần được giải quyết. Theo Cục Giám sát quản lý (Tổng cục Hải quan), hiện có sự phân bố không đồng đều giữa các cửa khẩu trên toàn tuyến biên giới. Ở một số khu vực, mật độ cửa khẩu quá dày, gây lãng phí nguồn lực, trong khi đó, tại những khu vực khác lại thiếu hụt cửa khẩu cần thiết để đáp ứng nhu cầu giao thương và vận chuyển hàng hóa.

Thêm vào đó, phần lớn các cửa khẩu phụ và lối mở biên giới chưa được đầu tư cơ sở hạ tầng một cách đồng bộ và hiệu quả. Các cửa khẩu quốc tế thường được chú trọng với việc xây dựng nhà kiểm soát liên hợp, kho ngoại quan và hệ thống cơ sở vật chất hiện đại. Trong khi đó, các cửa khẩu phụ lại thiếu các công trình cơ bản này, dẫn đến tình trạng nhiều cửa khẩu hoạt động không hiệu quả, chưa đáp ứng được nhu cầu xuất nhập khẩu hàng hóa.

 

Theo Chiến lược phát triển Hải quan đến năm 2030, tất cả các cửa khẩu quốc tế trọng điểm sẽ được trang bị hệ thống quản lý giám sát tự động, hệ thống soi chiếu hiện đại và ứng dụng camera giám sát. Ảnh: Internet.

Có thể thấy, cửa khẩu biên giới không chỉ là cầu nối giao thương mà còn là tuyến phòng thủ quan trọng trong việc bảo vệ an ninh quốc gia. Việc xây dựng và quy hoạch cửa khẩu không thể tách rời khỏi bối cảnh chính trị, an ninh, và các mối quan hệ quốc tế giữa Việt Nam và các nước láng giềng. Theo Hiệp định cửa khẩu và quy chế quản lý cửa khẩu biên giới giữa Việt Nam với Trung Quốc, Lào, và Campuchia, việc kiểm soát xuất nhập khẩu và quản lý cửa khẩu là nhiệm vụ quan trọng của các cơ quan quản lý nhà nước, trong đó có lực lượng hải quan, biên phòng, và các cơ quan liên quan khác.

Trong bối cảnh công nghệ số phát triển mạnh mẽ và xu hướng toàn cầu hóa ngày càng gia tăng, việc chuyển đổi số trong lĩnh vực hải quan trở thành một yêu cầu cấp thiết. Chính phủ Việt Nam đã nhận thức rõ tầm quan trọng của việc ứng dụng công nghệ trong công tác quản lý hải quan và đã đề ra Chiến lược phát triển Hải quan đến năm 2030, trong đó nhấn mạnh mục tiêu xây dựng hệ thống hải quan số, ứng dụng công nghệ hiện đại vào quy trình giám sát và quản lý hàng hóa, phương tiện xuất nhập khẩu.

Theo chiến lược này, đến năm 2030, tất cả các cửa khẩu quốc tế trọng điểm sẽ được trang bị hệ thống quản lý giám sát tự động, hệ thống soi chiếu hiện đại, và ứng dụng camera giám sát. Điều này không chỉ giúp giảm thiểu thời gian thông quan mà còn tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước, đảm bảo tính minh bạch và công khai trong quy trình quản lý hải quan. 

Theo ông Đào Duy Tám, Phó Cục trưởng Cục Giám sát quản lý (Tổng cục Hải quan)trước hết, cần hoàn thiện cơ sở pháp lý liên quan đến việc quản lý cửa khẩu, đặc biệt là các quy định về cơ sở hạ tầng và trang thiết bị tại các cửa khẩu phụ và lối mở. Thứ hai, cần đầu tư mạnh mẽ vào cơ sở hạ tầng tại các cửa khẩu phụ và lối mở biên giới, đảm bảo các khu vực này có đầy đủ điều kiện để phục vụ tốt cho hoạt động giao thương và kiểm soát an ninh. Thứ ba, việc triển khai hệ thống giám sát tự động tại các cửa khẩu cần được thực hiện đồng bộ với hệ thống quản lý quốc gia để đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả trong quá trình thực hiện thủ tục xuất nhập khẩu. Đồng thời, quá trình chuyển đổi số không thể thiếu sự đồng thuận và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng liên quan, đặc biệt là hải quan, biên phòng và các cơ quan kiểm dịch.

Kim Oanh