Dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) Chính phủ trình Quốc hội đã được Quốc hội thảo luận, cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 7 (tháng 6/2024).
Dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) Chính phủ trình Quốc hội đã được Quốc hội thảo luận, cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 7 (tháng 6/2024).Sau Kỳ họp, thực hiện ý kiến, chương trình của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, cơ quan soạn thảo đã phối hợp với Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, cơ quan thẩm tra Dự án Luật nghiên cứu, tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội để chỉnh lý dự thảo Luật, trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại Phiên họp chuyên đề pháp luật (tháng 8/2024) và đang tiếp thu chỉnh lý để trình Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XV tháng 11 năm 2024. Việc chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo Luật được tiến hành thận trọng, kĩ lưỡng, đáp ứng các mục tiêu đề ra, nhất là thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, Hiến pháp năm 2013 nhằm bảo tồn, phát huy bền vững giá trị di sản văn hóa của dân tộc, góp phần phát triển kinh tế – xã hội, phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, bảo đảm tính minh bạch, khả thi và tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật, nội luật hóa bảo đảm phù hợp các Công ước của UNESCO về di sản văn hóa mà Việt Nam là thành viên.
Dự án Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) lần này có nhiều quy định mới, quy định sửa đổi, bổ sung tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa nói chung và tại một số quy định liên quan đến di sản văn hóa phi vật thể, di tích, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia, di sản tư liệu và bảo tàng, cụ thể:
1. Về bổ sung quy định mới tại dự thảo Luật về hoạt động quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu
Sự xuất hiện của loại hình di sản tư liệu và nhu cầu quản lý ở Việt Nam xuất hiện sau khi chúng ta tham gia vào “Chương trình Ký ức Thế giới” của UNESCO từ năm 2007 – 15 năm là quốc gia thành viên tham gia Chương trình lĩnh vực quản lý nhà nước về di sản tư liệu chưa có hành lang pháp lý để bảo vệ và phát huy giá trị. Từ năm 2015, Hướng dẫn Bảo vệ di sản tư liệu đã được Ủy ban Chương trình Ký ức thế giới của UNESCO chuyển thành Khuyến nghị và theo định hướng đề xuất lên Công ước hoàn chỉnh trong thời gian tới. Hiện, 10 di sản tư liệu của Việt Nam đã được UNESCO ghi danh, là động lực không nhỏ thúc đẩy việc xác định giá trị, quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị của di sản tư liệu ở Việt Nam. Tuy nhiên, di sản tư liệu là loại hình di sản mới ở Việt Nam nên vẫn có nhiều vấn đề còn đang bỏ ngỏ, cụ thể như sau:
– Việc nhận thức về tầm quan trọng của công tác nhận diện và xác định giá trị di sản tư liệu chưa được quan tâm đúng mức dẫn đến công tác bảo vệ di sản tư liệu chưa bài bản, thống nhất.
– Cơ quan có chức năng bảo tồn di sản văn hóa nói chung, trong đó có những nơi lưu giữ di sản tư liệu nói riêng được thành lập, cải tạo, mở rộng thành một hệ thống cơ quan chuyên môn khá đa dạng về loại hình hoạt động, bao gồm: hệ thống các Lưu trữ lịch sử từ Trung ương đến địa phương; các lưu trữ hiện hành trong các cơ quan, đơn vị; các lưu trữ tư nhân, cá nhân; hệ thống bảo tàng quốc gia và bảo tàng địa phương (còn có cả các loại hình bảo tàng ngoài công lập); hệ thống thư viện quốc gia, thư viện địa phương, thư viện trong các cơ quan nghiên cứu, trường học… Sự đa dạng này là nguyên nhân khiến cho việc thống kê, nhận diện, phân loại di sản tư liệu trong nước không hề dễ dàng.
– Việc quy hoạch tổng thể ngắn hạn, dài hạn, các quan điểm và mục tiêu chiến lược cho việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu còn chưa được đề ra, chưa định hướng được con đường cụ thể và các tiêu chí xác nhận giá trị chặt chẽ cho di sản tư liệu Việt Nam, đặc biệt là các di sản tư liệu khu vực và thế giới. Vì vậy, việc xây dựng chính sách, bảo đảm Nhà nước quản lý thống nhất về hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu của Việt Nam.
– Kinh phí dành cho công tác bảo vệ, phát huy giá trị di sản tư liệu, đặc biệt là di sản tư liệu khu vực và thế giới còn hạn chế so với tiềm năng và nhu cầu thực tế của di sản. Việc đào tạo, tuyên truyền, giáo dục thông qua nội dung di sản tư liệu còn rời rạc, manh mún, chưa có tiếng nói hòa chung với di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể.
Sự thiếu những quy định pháp luật về di sản tư liệu khiến cho hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị loại hình di sản này gặp rất nhiều khó khăn. Hầu hết các hoạt động mới chỉ dừng lại ở mức độ lập hồ sơ đề nghị UNESCO vinh danh, các hoạt động sưu tầm, kiểm kê, nhận diện, bảo quản, phát huy giá trị… chưa có cơ chế, hành lang pháp lý để triển khai đồng bộ, thống nhất trên phạm vi toàn quốc.
Từ năm 1992, UNESCO khởi xướng Chương trình Ký ức thế giới, trong đó, chú trọng việc bảo tồn và phát huy giá trị những di sản tư liệu về các thành tựu của nhân loại, như chính trị, lịch sử, văn hóa…, Việt Nam chính thức tham gia là quốc gia thành viên của Chương trình, năm 2007. Đến nay, Việt Nam đã có 10 di sản tư liệu được Chương trình Ký ức thế giới của UNESCO ghi danh, gồm: 03 di sản tư liệu thế giới và 07 di sản tư liệu khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Di sản tư liệu được coi là một bộ phận của di sản văn hóa Việt Nam, tuy nhiên, đã 15 năm là quốc gia thành viên mà di sản tư liệu vẫn chưa tạo được hành lang pháp lý cho lĩnh vực này.
Do vậy chính sách quản lý nhà nước về di sản tư liệu được xây dựng là chính sách mới, lần đầu tiên được đưa vào trong Luật Di sản văn hóa, thể hiện được sự thống nhất trong quản lý di sản văn hóa.
Trong thời gian tới, di sản tư liệu của Việt Nam sẽ tiếp tục được UNESCO xem xét, ghi danh cấp khu vực và thế giới và ngày càng có xu hướng gia tăng. Di sản tư liệu của Việt Nam ở các địa phương, gia đình và dòng họ… đa dạng về loại hình, tài liệu, tư liệu rất tiềm năng, cũng có di sản tư liệu có nguy cơ bị mai một, biến mất… Vì vậy, việc ban hành Thông tư quy định về kiểm kê và lập hồ sơ khoa học di sản tư liệu để đưa vào Danh mục quốc gia về di sản tư liệu là cấp thiết, việc ban hành Thông tư này có ý nghĩa thực tiễn quan trọng nhằm tháo gỡ khó khăn trong hoạt động quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu ở Việt Nam hiện nay.
Mục tiêu cụ thể
– Bổ sung các thuật ngữ định nghĩa về di sản tư liệu và các vấn đề liên quan;
– Thêm 01 Chương mới gồm 11 Điều, tập trung các vấn đề: Bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu sau Chương 4 dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) .
Nội dung tập trung về hoạt động quản lý di sản tư liệu, gồm: nhận diện, quản lý, ghi danh, bảo vệ và phát huy giá trị di sản; Di sản tư liệu phải được kiểm kê với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về di sản văn hóa ở Trung ương và cấp tỉnh để lựa chọn, ghi danh vào các Danh mục Di sản tư liệu của quốc gia, khu vực và thế giới; Quy định trình tự, thủ tục kiểm kê, số hóa, chuyển đổi số, bảo vệ, phát huy giá trị và đề nghị ghi danh di sản tư liệu của Việt Nam; Quy định thẩm quyền phê duyệt các dự án, đề án về bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu; Quy định về việc làm bản sao di sản tư liệu; Quyền lợi, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân sở hữu di sản tư liệu sau khi được ghi danh vào các Danh mục Di sản tư liệu của quốc gia, khu vực và thế giới.
Thêm mới quy định về việc triển khai các biện pháp bảo vệ phù hợp (như lập và triển khai kế hoạch, chương trình, đề án, dự án bảo vệ và phát huy giá trị di sản…) sau khi di sản được kiểm kê, ghi vào các danh sách của UNESCO, Danh mục quốc gia, có chính sách đảm bảo cơ chế thực thi nhằm tăng cường bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa. Bổ sung các quy định nhằm điều chỉnh các hoạt động liên quan đến di sản tư liệu như: giao Chính phủ quy định chi tiết việc lựa chọn di sản tư liệu có giá trị để đăng ký vào Danh mục của quốc gia, khu vực và thế giới về di sản tư liệu; việc thống kê, bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu của Việt Nam.
2. Về thay đổi, mở rộng chính sách đối với nghệ nhân di sản văn hóa phi vật thể tại Dự án Luật Di sản văn hóa (sửa đổi)
Trong hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể, người nắm giữ, thực hành di sản được đánh giá là nhân tố quan trọng nhất. Di sản văn hóa phi vật thể không nằm ngoài con người, nó được chính bản thân con người dưới góc độ là cá nhân, nhóm, cộng đồng nắm giữ và thực hành. Họ là những người đóng vai trò chủ chốt trong quá trình tiếp nhận, sáng tạo và chuyển giao cho thế hệ kế tiếp; là những người “kiến tạo xã hội mang mầu sắc truyền thống”. Nói như vậy có nghĩa là, di sản văn hóa phi vật thể luôn sống cùng đời sống của con người; nó chịu những tác động, đe dọa và có nguy cơ mai một, thất truyền, “đóng băng ở quá khứ”. Do đó, việc bảo vệ, truyền dạy, thực hành và tái sáng tạo di sản văn hóa phi vật thể sẽ giúp gìn giữ di sản phi vật thể sống, thay đổi và thích ứng với đời sống. Thời gian qua đã có nhiều nghệ nhân qua đời mà chưa nhận được sự tôn vinh, chính sách đãi ngộ xứng đáng. Bên cạnh đó, nhiều nghệ nhân đang gặp khó khăn không chỉ trong hoạt động thực hành di sản văn hóa phi vật thể mà còn ngay trong chính cuộc sống, bởi họ là những người không thuộc các cơ quan nhà nước, không có lương, ít được hưởng chính sách xã hội. Nhiều người trong số họ sinh sống ở các vùng dân tộc thiểu số, khó khăn. Di sản văn hóa phi vật thể do họ đang nắm giữ chưa thể được phát huy đúng mức.
Dự án Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) đã có nhiều điểm mới, quan trọng, bao quát và phù hợp hơn trong chính sách đối với nghệ nhân thực hành di sản văn hóa phi vật thể. Cụ thể là:
Lần đầu tiên, khái niệm về nghệ nhân di sản văn hóa phi vật thể và nhiều khái niệm khác liên quan được đưa vào Luật. Khoản 15 Điều 3 ghi: “Nghệ nhân di sản văn hóa phi vật thể là người thực hành, nắm giữ và trao truyền các kỹ năng, kỹ thuật, bí quyết ở trình độ cao và hiểu biết sâu sắc về di sản văn hóa phi vật thể”; “Chủ thể di sản văn hóa phi vật thể là cộng đồng, nhóm người hoặc cá nhân sáng tạo, kế thừa, sở hữu, nắm giữ, thực hành, tái tạo và trao truyền di sản văn hóa phi vật thể.”. “Người thực hành là thành viên của cộng đồng chủ thể di sản văn hóa phi vật thể, tham gia tích cực vào thực hành, trao truyền, tái tạo di sản, góp phần để di sản được thực hành hoàn chỉnh, hình thành bản sắc văn hóa và vì lợi ích của cộng đồng chủ thể.” Cùng với đó, các chính sách liên quan tới đối tượng này cũng được đưa vào Luật như: khoản 7 Điều 6: “. Tôn trọng quyền của cộng đồng chủ thể và nghệ nhân nắm giữ bí quyết, kỹ năng thực hành di sản văn hóa phi vật thể trong việc quyết định các yếu tố cần được bảo vệ và những hình thức, mức độ cần được phát huy của di sản; xác định nguy cơ, tác động đe dọa sự tồn tại và lựa chọn giải pháp bảo vệ di sản.”; khoản 4 Điều 7: “. Tôn vinh và có chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân có tài năng xuất sắc, nghệ nhân có công lao bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể, đặc biệt là nghệ nhân người dân tộc thiểu số, nghệ nhân sinh sống ở miền núi, biên giới, hải đảo, nghệ nhân là người khuyết tật, người thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo.”; Miễn, giảm vé tham quan, học tập, nghiên cứu di sản văn hóa tại bảo tàng, di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh thuộc sở hữu toàn dân đối với trẻ em, học sinh, sinh viên, người thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, người cao tuổi, người khuyết tật, người có công với cách mạng, đồng bào dân tộc thiểu số ở các xã có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn, Nghệ nhân nhân dân, Nghệ nhân ưu tú và một số đối tượng đặc biệt theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.”.
Đặc biệt là chính sách quy định tại Điều 14. Chính sách đối với nghệ nhân, chủ thể di sản văn hóa phi vật thể: 1. Nghệ nhân, chủ thể di sản văn hóa phi vật thể, đặc biệt ưu tiên nghệ nhân, chủ thể di sản văn hóa phi vật thể của đồng bào dân tộc thiểu số được hưởng chính sách, chế độ đãi ngộ của Nhà nước như sau: a) Được Nhà nước xét tặng, tổ chức lễ trao tặng danh hiệu vinh dự nhà nước và thực hiện các hình thức tôn vinh khác theo quy định của pháp luật về thi đua khen thưởng; b) Hỗ trợ cơ sở vật chất, công cụ, đồ vật, đồ tạo tác và không gian văn hóa liên quan cho hoạt động duy trì thực hành, truyền dạy, sáng tạo, trình diễn, để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể; c) Hỗ trợ kinh phí, cơ sở vật chất, công cụ, đồ vật, đồ tạo tác và không gian văn hóa liên quan cho việc thành lập, tổ chức hoạt động của các câu lạc bộ, nhóm thực hành di sản văn hóa phi vật thể; d) Nghệ nhân nhân dân, Nghệ nhân ưu tú được Nhà nước phong tặng được hưởng trợ cấp sinh hoạt hằng tháng, hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm y tế, hỗ trợ chi phí mai táng khi chết; đ) Các chế độ, chính sách khác theo quy định của pháp luật. Các quy định lớn về chính sách đối với nghệ nhân được quy định tại Dự thảo Luật cũng được giao cho Chính phủ quy định chi tiết.
Điều 26 của Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa năm 2009 quy định: “Trợ cấp sinh hoạt hằng tháng và ưu đãi khác đối với nghệ nhân đã được phong tặng danh hiệu vinh dự nhà nước có thu nhập thấp, hoàn cảnh khó khăn.” thì ở Dự thảo của Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) quy định: “Nghệ nhân nhân dân, Nghệ nhân ưu tú được Nhà nước phong tặng được hưởng trợ cấp sinh hoạt hằng tháng, hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm y tế, hỗ trợ chi phí mai táng khi chết;”. Như vậy có thể thấy, chính sách hỗ trợ, trợ cấp không chỉ còn là đối với đối tượng là nghệ nhân “có thu nhập thấp, hoàn cảnh khó khăn” mà đã mở rộng ra cho các nghệ nhân khác. Hay như, trước tình hình thực tiễn và đề nghị từ các cấp chính quyền địa phương, Dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) cũng quy định: “Ngoài các chính sách quy định tại khoản 1 Điều này, căn cứ điều kiện phát triển kinh tế – xã hội, khả năng cân đối ngân sách, huy động các nguồn lực xã hội, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định chế độ đãi ngộ nghệ nhân, chủ thể di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn.” (Khoản 2, Điều 14).
So với các quy định trước đây (Luật Di sản văn hóa 2001, Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa năm 2009), các nội dung chính sách đối với nghệ nhân di sản văn hóa phi vật thể được quy định tại Dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) có nhiều thay đổi lớn và được đánh giá là tích cực, khắc phục được những bất cập trong thời gian qua, phù hợp với thực tế, đáp ứng yêu cầu về các nhiệm vụ quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc, phù hợp với Công ước 2003 của UNESCO về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể.
3. Bảo vệ di sản văn hoá có nguy cơ mai một, thất truyền
Luật Di sản văn hóa năm 2001 có 1 chương 11 điều về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể và được sửa đổi, bổ sung tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa năm 2009 sau khi Việt Nam tham gia Công ước 2003 của UNESCO về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể. Điều 20 của Luật Di sản văn hóa quy định “Cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, ngăn chặn nguy cơ làm sai lệch, bị mai một hoặc thất truyền“.
Tại khoản 2 Điều 7 Thông tư số 04/2010/TT-BVHTTDL ngày 30/6/2010 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định việc kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể và lập hồ sơ khoa học di sản văn hóa phi vật thể để đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia cũng quy định “Trong quá trình kiểm kê, khi phát hiện di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp, Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh để kịp thời có biện pháp bảo vệ“. Tuy nhiên, các quy định này chưa nêu cụ thể việc xác định và thực hiện các biện pháp bảo vệ đối với di sản văn hóa phi vật thể có nguy cơ mai một thất truyền.
Thực tiễn cho thấy, di sản văn hóa phi vật thể có nguy cơ mai một, thất truyền hiện hữu. Hơn nữa, trong quan hệ hợp tác quốc tế và thực thi Công ước 2003 của UNESCO về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, di sản văn hóa phi vật thể có nguy cơ mai một, thất truyền luôn được ưu tiên bảo vệ. UNESCO có Danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp để ghi danh di sản và quan tâm bảo vệ. Do vậy, trong dự thảo Luật di sản văn hóa (sửa đổi) lần này, đã bổ sung quy định về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể có nguy cơ mai một, thất truyền tại Điều 18, cụ thể về tiêu chí xác định, các biện pháp bảo vệ, quy định về trình Thủ tướng Chính phủ cho phép tổ chức xây dựng hồ sơ đề nghị UNESCO hỗ trợ bảo vệ các di sản được ghi danh trong Danh sách cần bảo vệ khẩn cấp từ Quỹ bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của Công ước 2003 của UNESCO về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể…
4. Về bổ sung việc phân cấp thẩm quyền cho địa phương trong việc bảo quản, sửa chữa nhỏ, tu sửa cấp thiết di tích
– Điểm c, Khoản 1, Điều 36 dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) quy định việc phân cấp cho địa phương thẩm quyền bảo quản thường xuyên, sửa chữa nhỏ di tích “Người đại diện, tổ chức được giao quản lý, sử dụng di tích thực hiện việc bảo quản thường xuyên, sửa chữa nhỏ di tích phải thực hiện các yêu cầu quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật, nhân lực có chuyên môn, nghiệp vụ; ưu tiên sử dụng vật liệu, kỹ thuật truyền thống và bảo đảm sự bền vững và ổn định của di tích“.
– Điểm c, Khoản 1, Điều 36 dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) quy định về việc phân cấp việc tu sửa cấp thiết di tích “Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Bộ trưởng, người đứng đầu ngành, cơ quan, tổ chức ở trung ương theo thẩm quyền phê duyệt báo cáo kinh tế – kỹ thuật, tu sửa cấp thiết di tích sau khi có ý kiến bằng văn bản của cơ quan chuyên môn về văn hóa cấp tỉnh”.
5. Về quy định, thẩm quyền đối với các công trình thực hiện trong khu vực bảo vệ của di tích và điều chỉnh ranh giới khu vực bảo vệ di tích
– Tại Dự thảo Luật, Điều 35 quy định rút gọn quy trình thẩm định dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích theo hướng từ 02 cơ quan văn hoá và xây dựng thẩm định theo 02 pháp luật về xây dựng và di sản văn hoá, rút gọn còn 01 cơ quan văn hoá chịu trách nhiệm thẩm định dự án theo quy định của pháp luật về di sản văn hoá và pháp luật về xây dựng.
– Dự thảo Luật mở rộng cái loại công trình được thực hiện trong khu vực bảo vệ di tích. So với Luật Di sản văn hoá hiện hành chỉ quy định được thực hiện công trình trực tiếp bảo vệ và phát huy giá trị của di tích, dự thảo Luật đã bổ sung, mở rộng quy định rõ các loại công trình được thực hiện ở khu vực bảo vệ I, Khu vực bảo vệ II của di tích, cụ thể tại Điều 28:
“1. Khu vực bảo vệ I của di tích chỉ được sửa chữa, cải tạo, xây dựng công trình sau:
a) Sửa chữa, cải tạo, xây dựng công trình trực tiếp phục vụ bảo vệ và phát huy giá trị di tích;
b) Sửa chữa, cải tạo, xây dựng lại nhà ở riêng lẻ trên cơ sở hiện trạng nhà ở riêng lẻ đã có.
2. Khu vực bảo vệ II của di tích chỉ được sửa chữa, cải tạo, xây dựng công trình sau:
a) Sửa chữa, cải tạo, xây dựng công trình trực tiếp phục vụ bảo vệ và phát huy giá trị di tích;
b) Sửa chữa, cải tạo, xây dựng nhà ở riêng lẻ;
c) Sửa chữa, cải tạo, xây dựng công trình kinh tế – xã hội”
Theo đó, dự thảo Luật giao thẩm quyền cho Chủ tịch UBND cấp tỉnh, cơ quan văn hoá đối với công trình, nhà ở riêng lẻ, đồng thời, phân cấp, phân quyền từ Thủ tướng Chính phủ cho Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, cho Chủ tịch UBND cấp tỉnh và cơ quan chuyên môn về văn hoá cấp tỉnh cho ý kiến về di sản văn hoá theo quy định đáp ứng yêu cầu bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá đối với các dự án đầu tư, xây dựng công trình kinh tế – xã hội trong và ngoài khu vực bảo vệ của di tích.
Quy định này được ban hành nhằm kịp thời xử lý các vấn đề phát sinh trong thực tiễn, giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển, cũng như đáp ứng nhu cầu cấp bách của người dân sinh sống ổn định, lâu dài trong các khu vực bảo vệ di tích.
Đồng thời, dự thảo Luật cũng bổ sung, làm rõ các yếu tố tác động được xem là có ảnh hưởng tiêu cực đến yếu tố gốc cấu thành di tích, cảnh quan văn hoá của di tích tại Điều 30.
– Về điều chỉnh ranh giới khu vực bảo vệ di tích
Dự thảo Luật đã bổ sung quy định rõ nguyên tắc xác định Khu vực bảo vệ II của di tích, quy định rõ việc điều chỉnh khu vực bảo vệ di tích tại Điều 27.
6. Quy định rõ việc phát huy giá trị di tích
Luật Di sản văn hóa năm 2001, được sửa đổi bổ sung năm 2009 đã đề cập đến nội dung “phát huy giá trị di tích”, nhưng chưa quy định nội hàm và nội dung cụ thể của hoạt động phát huy giá trị di tích. Do đó, Điều 26, dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) đã quy định cụ thể về các hoạt động phát huy giá trị di tích.
Việc quy định đã tạo ra hành lang pháp lý để các Ban Quản lý di tích và tổ chức, cá nhân liên quan có cơ sở triển khai hoạt động bảo vệ phát huy giá trị di tích, góp phần vào phát triển kinh tế – xã hội và phát triển bền vững đất nước và trên địa bản.
7. Về quy định thăm dò, khai quật khảo cổ dưới nước và bảo vệ di sản văn hóa dưới nước.
Luật Di sản văn hóa năm 2001 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) không quy định về đối tượng di sản văn hóa dưới nước, cũng như điều kiện để thăm dò, khai quật khảo cổ dưới nước. Do đó, dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) lần này đã:
– Bổ sung đối tượng quy hoạch khảo cổ bao gồm di sản văn hoá dưới nước (khoản 3 Điều 37):“Đối tượng được đưa vào quy hoạch khảo cổ là các địa điểm, khu vực trong lòng đất và dưới nước đã phát hiện di tích, di vật hoặc có dấu hiệu lưu giữ di tích, di vật có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học”;
– Bổ sung điều kiện thăm dò, khai quật khảo cổ dưới nước phải lập thành dự án và có giấy phép của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (khoản 2 Điều 39):“2. Việc thăm dò, khai quật khảo cổ phải đáp ứng các điều kiện sau: a) Phù hợp với quy hoạch khảo cổ quy định tại Điều 37 của Luật này trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 38 của Luật này; b) Lập thành dự án khai quật khảo cổ được cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định của Luật này, pháp luật về đầu tư, đầu tư công, đầu tư theo phương thức đối tác công tư và quy định khác của pháp luật có liên quan; c) Có giấy phép của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch”. Trường hợp di sản văn hóa dưới nước xác định có quy mô lớn, có ý nghĩa quan trọng về lịch sử, văn hóa, khoa học phải kịp thời báo cáo Thủ tướng Chính phủ (khoản 4 Điều 39).
Việc quy định cụ thể như trên góp phần vào việc quản lý, bảo vệ chặt chẽ hơn đối với loại hình di sản văn hóa dưới nước.
8. Về quy định mua và đưa di vật, cổ vật có nguồn gốc Việt Nam từ nước ngoài về nước
Luật Di sản văn hóa hiện tại chưa có các nội dung quy định về việc mua và đưa di vật, cổ vật có nguồn gốc Việt Nam từ nước ngoài về nước, đồng thời, trong các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 mới chỉ quy định về việc tặng cho tài sản. Dự thảo Luật quy định cụ thể việc mua và đưa di vật, cổ vật có nguồn gốc Việt Nam từ nước ngoài về nước và quy định những ưu đãi chính sách thuế nhằm khuyến khích cá nhân, tổ chức cùng tham gia trong việc này.
Việc quy định cụ thể mua và đưa di vật, cổ vật có nguồn gốc Việt Nam từ nước ngoài về nước không chỉ để bổ sung, hoàn thiện các sưu tập cổ vật, bảo vật, di sản văn hóa bị thất lạc, “chảy máu” ra nước ngoài, mà còn khẳng định vị thế, tầm ảnh hưởng của dân tộc, đồng thời, góp phần đảm bảo tính toàn vẹn của di sản văn hóa – một nội dung quan trọng mà UNESCO rất chú trọng trong bảo tồn di sản văn hóa, đồng thời thể hiện vai trò của Việt Nam trong việc thực hiện các cam kết quốc tế tại các Công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
9. Đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp công trình, trưng bày bảo tàng công lập
Trong hoạt động thực tiễn nhiều năm qua, việc đầu tư xây dựng bảo tàng tại một số địa phương hiện chỉ tập trung đầu tư cho công trình kiến trúc bảo tàng, chưa có sự quan tâm đúng mức đối với nội dung trưng bày của bảo tàng và các quy định chuyên ngành bảo tàng trong công trình kiến trúc.
Do vậy, nhiều bảo tàng được đầu công trình nhưng vẫn chưa thể mở cửa trưng bày phục vụ khách tham quan, cồn trình chưa bảo đảm chất lượng và hiệu quả, dẫn tới có nhiều bảo tàng đầu tư không đồng bộ giữa xây dựng công trình với trưng bày, thiết kế không phù hợp với công năng, nội dung trưng bày trùng lặp… nên thiếu sức thu hút đối với công chúng. Do Bảo tàng là một thiết chế văn hóa đặc thù, có công năng sử dụng đa dạng từ bảo quản đến trưng bày phục vụ khách tham quan, nên phần công trình kiến trúc phải phù hợp để thỏa mãn công năng của bảo tàng.
Vì vậy, Điều 70 dự thảo Luật quy định cần phải có cơ quan chuyên môn có thẩm quyền có ý kiến về nội dung trưng bày, dự án công trình kiến trúc của bảo tàng để đảm bảo tính lịch sử, khoa học và có sự thống nhất chung trong công tác quản lý thực hiện việc trưng bày của bảo tàng trên toàn quốc; hạn chế lãng phí, trùng lắp và kém hiệu quả của công trình văn hóa bảo tàng.
10. Về bổ sung quy định Quỹ bảo tồn di sản văn hóa Việt Nam
Luật Di sản văn hoá hiện hành chỉ quy định Nhà nước có chính sách bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia đóng góp, tài trợ cho việc bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa nhưng chưa quy định rõ nội dung, việc thực hiện đóng góp tài trợ như thế nào? Việc này dẫn đến việc thực hiện không khả thi. Thực tế, trong bối cảnh kinh phí Nhà nước còn hạn chế, rất cần có nguồn huy động từ quỹ ra đời sẽ để đáp ứng yêu cầu cấp bách trong việc cùng với Nhà nước tạo nên nguồn lực tài chính cần thiết để đáp ứng yêu cầu thực tế triển khai các hoạt động về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa mà chưa được ngân sách bố trí kinh phí hoặc kinh phí chưa đủ để tu bổ các di tích quốc gia và quốc gia đặc biệt đang có nguy cơ bị xuống cấp nghiêm trọng, sưu tầm và bảo quản hiện vật, mua và đưa các hiện vật, cổ vật có nguồn gốc Việt Nam từ nước ngoài về nước, mua và bảo quản các hiện vật, cổ vật có giá trị đặc biệt ở trong nước, bảo vệ các di sản văn hóa phi vật thể, di sản tư liệu có nguy cơ mai một, thất truyền …
– Theo khoản 19 Điều 4 Luật Ngân sách nhà nước 2015, quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách là quỹ do cơ quan có thẩm quyền quyết định thành lập, hoạt động độc lập với ngân sách nhà nước, nguồn thu, nhiệm vụ chi của quỹ để thực hiện các nhiệm vụ theo quy định của pháp luật ở các linh vực di sản văn hóa để đầu tư trong trường hợp di sản có giá trị tiêu biểu của đất nước, bị xuống cấp, có khả năng ảnh hưởng đến sự tồn tại bền vững nhưng chưa được đầu tư hoặc đầu tư chưa bảo đảm.
– Nghị định số 163/2016/NĐ-CP ngày 21/12/2016 của Chính phủ quy định quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách là quỹ được thành lập theo quy định của Luật ngân sách nhà nước, không được ngân sách nhà nước hỗ trợ kinh phí hoạt động (Điều 12). Căn cứ khả năng của ngân sách nhà nước, quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách được cơ quan có thẩm quyền xem xét hỗ trợ vốn điều lệ từ ngân sách nhà nước khi đáp ứng đủ các điều kiện: được thành lập và hoạt động theo đúng quy định của pháp luật; có khả năng tài chính độc lập; có nguồn thu, nhiệm vụ chi không trùng với nguồn thu, nhiệm vụ chi của ngân sách nhà nước.
Đồng thời, Pháp luật về Ngân sách nhà nước không quy định chi tiết về mô hình hoạt động của quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách, nhưng quy định rõ quỹ do cơ quan có thẩm quyền thành lập theo quy định của pháp luật, như vậy tư cách pháp nhân của quỹ do cơ quan có thẩm quyền thành lập quyết định theo quy định của pháp luật hiện hành theo từng lĩnh vực. Quỹ bảo tồn di sản văn hóa thành lập cần có tư cách pháp nhân để huy động được nguồn lực. Trên thực tế, đã có các Quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách được thành lập như Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia thành lập năm 2021 theo Luật Chuyển giao công nghệ năm 2017, Quỹ Hỗ trợ việc làm ngoài nước thành lập năm 2021 theo Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, năm 2020, Quỹ hỗ trợ phát triển Du lịch được thành lập theo Luật Du lịch năm 2017… Các Quỹ này đều có tư cách pháp nhân và do Thủ tướng Chính phủ thành lập.
Tại dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi), việc quy định nội dung Quỹ bảo tồn di sản văn hóa Việt Nam tại Điều 92 sẽ là căn cứ pháp lý thành lập Quỹ, giải quyết khó khăn hiện nay của ngành Di sản văn hoá. Quỹ bảo tồn di sản văn hóa Việt Nam được thành lập sẽ huy động phần đóng góp của các đối tượng hưởng lợi từ hoạt động di sản, huy động nguồn kinh phí từ xã hội hóa và cùng với một phần ngân sách nhà nước triển khai các hoạt động di sản văn hóa một cách chủ động, chuyên nghiệp góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng phát triển kinh tế, hỗ trợ hoạt động truyền thông về di sản văn hóa trong cộng đồng…
Do đó, việc thành lập Quỹ bảo tồn di sản văn hóa Việt Nam là cần thiết để đảm bảo thúc đẩy phát triển đột phá trong lĩnh vực di sản văn hóa. Dự thảo Luật Di sản văn hóa sửa đổi lần này đã thể hiện rõ về các nguồn thu là: vốn điều lệ do ngân sách nhà nước cấp; Nguồn tài trợ, đóng góp tự nguyện, hợp pháp của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài; Các nguồn thu hợp pháp khác theo quy định của pháp luật đã được quy định.
11. Về quy định xếp hạng, ghi danh, quản lý di sản văn hoá có địa bàn phân bố từ 02 địa phương trở lên, hồ sơ đa quốc gia
Các quy định về thủ tục và thẩm quyền ghi danh, xếp hạng di sản văn hóa trong Luật Di sản văn hóa hiện hành chỉ quy định di sản phân bố theo địa giới hành chính đơn lẻ từng địa phương. Tuy nhiên, trong thực tế, phạm vi di sản văn hóa lại mang tính liên cộng đồng và khu vực, không đồng nhất với địa giới hành chính, một số di sản văn hóa được phân bố trên phạm vi liên tỉnh, thậm chí đa quốc gia. Do đó, Luật đang thiếu những quy định để tiến hành các thủ tục ghi danh, xếp hạng, thực thi các biện pháp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa có phạm vi phân bố liên tỉnh, đa quốc gia, cụ thể:
Đối với di sản văn hoá phi vật thể phân bố trên địa bàn từ 02 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trở lên, việc ghi danh, ghi danh bổ sung và hủy bỏ ghi danh quy định tại điểm a khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 13; nghiên cứu, tư liệu hóa quy định tại khoản 2 Điều 16 dự thảo Luật.
Đối với di tích phân bố trên địa bàn từ 02 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trở lên, việc xếp hạng và hủy bỏ xếp hạng di tích, thẩm quyền, trình tự, thủ tục, hồ sơ xếp hạng, xếp hạng bổ sung, hủy bỏ quyết định xếp hạng và bổ sung, chỉnh sửa hồ sơ khoa học di tích quy định tại Điều 24; Điều 25; việc quản lý, sử dụng di tích được quy định tại khoản 4 Điều 32 dự thảo Luật.
12. Về quy định sử dụng, khai thác di sản văn hoá
Quy định sử dụng, khai thác di sản văn hoá là một trong những điểm mở của dự thảo Luật tại Điều 91, để thể hiện vai trò của di sản văn hoá trở thành tài sản, nguồn lực trong đóng góp phát triển kinh tế – xã hội, công nghiệp văn hoá, vừa góp phần quảng bá, phát huy giá trị di sản văn hoá ở trong nước và quốc tế. Theo đó quy định sử dụng, khai thác di sản văn hóa là việc sử dụng công trình, địa điểm, nội dung, hình ảnh, thông tin và giá trị của di sản văn hóa để tuyên truyền, giới thiệu, quảng bá, giáo dục, biểu diễn, sáng tạo sản phẩm công nghiệp văn hóa, phát triển kinh tế – xã hội.
Đồng thời, quy định di sản văn hóa hạn chế sử dụng, khai thác trong một số trường hợp để bảo đảm tuân thủ nguyên tắc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá quy định tại Điều 6 và Điều 9 của dự thảo Luật.
Bên cạnh đó, dự thảo Luật Di sản văn hoá (sửa đổi) còn nhấn mạnh việc hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về di sản văn hoá, chuyển đổi số,… Qua đó, thể hiện được tính bao quát, dự báo của dự thảo Luật khi áp dụng có hiệu lực, hiệu quả vào thực hiễn trong thời gian tới./.
Cục Di sản văn hóa
Nguồn: https://bvhttdl.gov.vn/thong-tin-bao-chi-thang-9-ve-du-an-luat-di-san-van-hoa-sua-doi-20241016154140172.htm