Mục đích hội thảo là đánh giá thực trạng độ phì thực tế của đất trồng lúa vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) trong vòng 5 năm gần đây. Từ đó xác định yếu tố hạn chế của đất để đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng phân bón, giảm chi phí, tăng thu nhập cho người dân và giảm phát thải khí nhà kính.
Mất cân đối dinh dưỡng do khai thác đất chưa đúng cách
Hội thảo lần này nằm trong chuỗi Hội thảo về “Đất và phân bón” do Công ty CP Phân bón Bình Điền tài trợ và sẽ được Ban tổ chức tiến hành thường niên với các chủ đề khác nhau, hướng đến các vùng sinh thái và cây trồng chính trong cả nước. Các báo cáo tham luận và thảo luận tại hội thảo đã tập trung cho hiện trạng độ phì nhiêu đất lúa và sử dụng hiệu quả phân bón trong canh tác lúa vùng ĐBSCL.
Với diện tích trồng lúa trên 1,5 triệu ha, diện tích gieo trồng hàng năm trên 3 triệu ha, hàng năm vùng ĐBSCL đóng góp 50% tổng sản lượng gạo và 90% lượng gạo xuất khẩu. Tuy nhiên theo đánh giá thì vùng đất này sẽ bị ảnh hưởng rất lớn trong thời gian tới.
Đất lúa ĐBSCL hiện đang phải đối mặt với tình trạng mất cân đối dinh dưỡng do khai thác đất chưa đúng cách. Việc đẩy cao cường độ thâm canh, tăng vụ, sử dụng phân bón vô cơ chưa cân đối, chưa tuân thủ các quy trình canh tác tiên tiến đã làm mất cân bằng dinh dưỡng trong đất, làm ảnh hưởng đến các tính chất lý, hóa và sinh học đất…
Hội thảo đã nêu rõ thực trạng đất ĐBSCL, đó là có 3 vùng sinh thái, thì vùng ven biển có chỉ số Ca/Mg dưới 1, thể hiện mất cân đối nghiêm trọng trong đất. Chỉ số pH cả 3 vùng đều là đất chua có pH từ 5.0 – dưới 5,5. Ngưỡng pH tối ưu cho lúa để cây lúa phát triển tốt thường nằm trong khoảng từ 5.5 – 6.5.
Theo ông Lê Thanh Tùng, Phó Cục trưởng, Cục Trồng trọt, với diện tích đất trồng lúa ở ĐBSCL gieo trồng trên 3 triệu ha/năm, hàng năm vùng ĐBSCL đóng góp 50% tổng sản lượng gạo và 90% lượng gạo xuất khẩu. Tuy nhiên theo đánh giá thì vùng đất này sẽ bị ảnh hưởng rất lớn trong thời gian tới.
Nằm phía cuối hạ nguồn sông Mekong, ĐBSCL là một trong những điểm nóng trên toàn cầu về biến đổi khí hậu. Ngoài các hiện tượng thời tiết cực đoan như hạn hán dài ngày, với vị trí 3 mặt Đông, Tây, Nam giáp biển Đông và biển Tây Nam, có đường bờ biển dài hơn 700km, ĐBSCL gặp phải những vấn đề cấp bách do biến đổi khí hậu như nước biển dâng, tình trạng xâm nhập mặn đang ngày càng nghiêm trọng. Điều này, ảnh hưởng trực tiếp đến tính chất của đất và tác động đến năng suất lúa và đời sống bà con nông dân.
“Thực tế sản xuất lúa tại ĐBSCL cho thấy, áp lực thâm canh tăng vụ dẫn đến việc sử dụng phân bón không hợp lý đã làm cho chất lượng đất giảm đi, có thể nói là làm cho đất bị suy thoái. Tại các vùng đất lúa ba vụ của Đồng Tháp, An Giang,… Qua thời gian, để duy trì năng suất, nông dân buộc phải tăng lượng phân bón trên đồng ruộng, dẫn đến lãng phí và ô nhiễm môi trường”, ông Tùng cho hay.
Ông Tùng còn nêu lên các thực trạng việc canh tác lúa tại ĐBSCL hiện nay bị bạc màu, trong đó có nguyên từ nông dân đốt rơm rạ ngay trên đồng ruộng, hay cày vùi rơm rạ ngay sau thu hoạch mà chưa được xử lý. Việc đốt rơm rạ ngay sau khi thu hoạch không chỉ gây lãng phí và ô nhiễm môi trường mà còn làm mất chất dinh dưỡng của đất, đốt nhiều lần và lâu dài sẽ làm cho đất biến chất và trở nên chai cứng. Việc cày vùi rơm rạ chưa qua xử lý, đất luôn ngập nước sẽ làm ảnh hưởng đến chất hữu cơ trong đất, lúa dễ bị ngộ độc hữu cơ và tạo ra nhiều khí gây hiệu ứng nhà kính.
Đồng Tháp là tỉnh đứng thứ ba vùng ĐBSCL về sản lượng lúa sau Kiên Giang và An Giang. Tổng diện tích đất sản xuất nông nghiệp của toàn tỉnh là 255.005 ha, trong đó đất trồng lúa là 195.229 ha, chiếm tới 76,6%. Diện tích lúa 3 vụ chiếm khoảng 68% diện tích đất canh tác lúa và diện tích lúa 2 vụ chiếm khoảng 32%. Trong những năm gần đây, quỹ đất trồng lúa tiếp tục suy giảm do việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng và chuyển mục đích sử dụng đất sang phi nông nghiệp.
Theo đại diện Sở NNPTNT Đồng Tháp, ở Đồng Tháp có 4 nhóm đất chính. Nhóm đất phù sa chiếm 59,06% diện tích đất tự nhiên, phân bố khắp 10 huyện, thành phố (trừ huyện Tân Hồng). Nhóm đất phèn chiếm 25,99% diện tích tự nhiên, phân bố khắp 10 huyện, thành phố (trừ TP Cao Lãnh). Nhóm đất xám chiếm 8,67% diện tích tự nhiên, phân bố chủ yếu trên địa hình cao ở huyện Tân Hồng và Hồng Ngự. Nhóm đất cát chiếm 0,04% diện tích tự nhiên, phân bố chủ yếu ở Động Cát và Gò Tháp, huyện Tháp Mười.
Để nâng cao chất lượng đất sản xuất nông nghiệp nói chung và đất trồng lúa nói riêng, trong những năm qua ngành nông nghiệp Đồng Tháp đã triển khai có hiệu quả nhiều chương trình, đề án, dự án, mô hình áp dụng các tiến bộ kỹ thuật như: chương trình sản xuất rau an toàn, hữu cơ, canh tác bền vững, tăng cường sử dụng phân bón hữu cơ, phân bón vi sinh, thuốc BVTV có nguồn gốc sinh học, giảm dần phân bón hóa học, hóa chất trong nông nghiệp… đã khai thác và sử dụng hiệu quả đất nông nghiệp, góp phần không nhỏ để cải tạo, nâng cao chất lượng đất, góp phần gia tăng giá trị kinh tế trên diện tích canh tác.
Quy trình canh tác lúa thông minh mang lại kết quả tích cực
Ông Ngô Văn Đông, Tổng giám đốc Công ty Cổ phần phân bón Bình Điền cho biết, việc nâng cao hiệu quả sử dụng phân bón trong canh tác lúa, qua các quy trình canh tác lúa thông minh gắn tăng trưởng xanh, phát thải thấp vùng ĐBSCL nằm trong Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao cho kết quả tích cực trong vụ hè thu 2024.
Trong đó, trọng tâm là giảm lượng giống (còn dưới 80kg/ha), ứng dụng công nghệ vào trong việc sạ lúa (ứng dụng công cụ sạ hàng sạ cụm để giảm lượng giống nhưng đảm bảo năng suất). Tuân thủ quy trình rút nước ướt khô xen kẽ, đây là điều quan trọng để giúp lượng khí phát thải trên đồng ruộng và giúp rễ lúa ăn sâu hơn. Đồng thời còn hạn chế quá trình đổ ngã của cây lúa và cuối cùng là không đốt đồng mà đem rơm sau khi thu hoạch để phục vụ mục đích khác.
Kết quả vụ hè thu 2024, tại những mô hình trong đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao được triển khai ở các vùng sản xuất tại ĐBSCL cho thấy, việc áp dụng quy trình gieo sạ chính xác có kết hợp vùi phân và ứng dụng đồng bộ các kỹ thuật giúp mô hình đạt năng suất 7,2 tấn/ha, cao hơn ruộng ngoài mô hình 0,315 tấn/ha. Từ đó giúp nông dân giảm được chi phí đầu tư hơn 4,2 triệu đồng/ha, lợi nhuận tăng thêm 5,4 triệu đồng/ha. Các chỉ số về phát thải được ghi nhận giảm hơn so với ruộng ngoài mô hình vốn được canh tác theo tập quán cũ.
Ngoài ra, Công ty Bình Điền cũng báo cáo về việc nghiên cứu và cho ra đời dòng sản phẩm Đầu Trâu Bio nhằm khắc phục một số tồn tại của đất lúa ĐBSCL như phèn, xâm nhập mặn, ngộ độc hữu cơ. Các mô hình đã được thực hiện tại một số tỉnh như Long An, Sóc Trăng, Đồng Tháp, Bình Định và Tây Ninh…
Tại hội thảo, các đại biểu, chuyên gia đã thảo trình, trình bày các vấn đề về kết quả “Đề án Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL” dưới góc nhìn từ sử dụng đất và phân bón hợp lý; hiệu quả của “Chương trình canh tác lúa thông minh tại ĐBSCL” giai đoạn 2016-2021 và 2022 đến nay; giải pháp hỗ trợ tăng hiệu quả sử dụng phân bón và giảm phát thải trong sản xuất lúa”.
Tại hội thảo, lãnh đạo Cục Trồng trọt đã khái quát kết quả triển khai “Đề án Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL” dưới góc nhìn từ sử dụng đất và phân bón hợp lý. Viện Nghiên cứu lúa gạo quốc tế (IRRI) trình bày báo cáo về “Giải pháp hỗ trợ tăng hiệu quả sử dụng phân bón và giảm phát thải trong sản xuất lúa”.
Hội thảo cũng nghe một số báo cáo của Hiệp hội Phân bón Việt Nam, Phân viện Quy hoạch và Thiết kế nông nghiệp Nam bộ; Trường Đại học Nông nghiệp (thuộc Đại học Cần Thơ) và nhiều chuyên gia trong ngành nông nghiệp cùng các Sở NNPTNT các tỉnh ĐBSCL.
Cũng tại hội thảo, Công ty CP Phân bón Bình Điền đã ký kết thỏa thuận hợp tác với IRRI về nghiên cứu, đánh giá và phát triển công nghệ xử lý rơm rạ trên đồng ruộng giai đoạn 2024-2027; Thỏa thuận hợp tác giữa Bình Điền và các doanh nghiệp về thực hiện canh tác lúa thông minh giảm phát thải khí nhà kính vùng ĐBSCL giai đoạn 2024-2027.
Nguồn: https://danviet.vn/nang-cao-hieu-qua-su-dung-phan-bon-trong-canh-tac-lua-tai-dong-bang-song-cuu-long-20241003095358547.htm