(MPI) – Để nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện cơ chế thực hiện loại hợp đồng Xây dựng – Chuyển giao (BT) và tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các dự án BT chuyển tiếp tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quy hoạch, Luật Đầu tư, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP) và Luật đấu thầu, ngày 19/9/2024, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức Hội nghị trực tiếp kết hợp trực tuyến tới 120 điểm cầu về hoàn thiện cơ chế thực hiện loại hợp đồng BT.
Toàn cảnh Hội nghị. Ảnh: MPI |
Từ năm 1997 đến nay, quy định của pháp luật về loại hợp đồng BT có nhiều thay đổi, đặc biệt là về hình thức thanh toán. Cụ thể, trước năm 2014, áp dụng cả 2 hình thức thanh toán bằng tiền mặt và bằng quỹ đất theo Nghị định số 108/2009/NĐ-CP. Kể từ năm 2014, dừng việc thanh toán bằng tiền mặt theo Nghị quyết 01 của Chính phủ và Nghị định 15/2015/NĐ-CP. Kể từ năm 2018, hình thức thanh toán bằng quỹ đất theo cơ chế ngang giá được luật hóa tại Luật Quản lý và sử dụng tài sản công. Kể từ năm 2021, hợp đồng BT không áp dụng đối với dự án đầu tư mới.
Việc dừng thực hiện dự án BT theo Luật PPP xuất phát từ những bất cập của việc thực hiện loại hợp đồng này như: một số dự án không có mục tiêu đầu tư phù hợp, không cần thiết; giá trị công trình BT được xác định không chính xác, đa số dự án có suất đầu tư cao hơn so với dự án sử dụng vốn đầu tư công; việc lựa chọn nhà đầu tư chủ yếu được thực hiện thông qua hình thức chỉ định thầu không cạnh tranh; công tác giám sát bị xem nhẹ dẫn đến chất lượng công trình không bảo đảm …
Mặc dù còn tồn tại một số bất cập nhưng theo đánh giá của nhiều Bộ, ngành, địa phương, các dự án BT được thực hiện trong thời gian trước khi Luật PPP có hiệu lực thi hành vẫn có một số đóng góp nhất định trong việc hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng tại các địa phương, huy động được nguồn lực của khu vực tư nhân, giúp giảm áp lực về vốn đầu tư công. Bên cạnh đó, các dự án đối ứng được thanh toán đầu tư cũng góp phần đáng kể cho việc cải thiện cơ sở hạ tầng về nhà ở, dịch vụ, hình thành các đô thị mới, khu dân cư mới …
Do vậy, nếu mô hình này được nghiên cứu kỹ lưỡng để đổi mới toàn diện, khắc phục tối đa những bất cập của giai đoạn trước thì vẫn có thể phát huy được hiệu quả. Hiện nay, Quốc hội đã cho phép 03 địa phương được thí điểm triển khai loại hợp đồng BT gồm thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hà Nội và Nghệ An. Tuy nhiên cách thức áp dụng còn chưa thống nhất, tùy thuộc vào điều kiện đặc thù của từng địa phương.
Trong bối cảnh việc huy động nguồn vốn đầu tư từ ngân sách ngày càng khó khăn và nhu cầu đầu tư cho phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng tăng mạnh, căn cứ quá trình thực hiện cơ chế này trong từng thời kỳ, cần xem xét tiếp tục áp dụng loại hợp đồng BT theo hướng đổi mới, hoàn thiện cơ chế thực hiện loại hợp đồng này.
Tại Hội nghị, đại diện Cục Quản lý đấu thầu, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã trình bày về cơ chế hợp đồng BT quy định tại Luật sửa đổi Luật Quy hoạch, Luật Đầu tư, Luật PPP và Luật đấu thầuvà Phương án xử lý, tháo gỡ vướng mắc đối với dự án BT chuyển tiếp. Theo đó, đối với BT thanh toán bằng tiền thì Tổng mức đầu tư dự án BT được xác định căn cứ thiết kế kỹ thuật để tránh việc nâng khống giá trị công trình; Nhà đầu tư được lựa chọn thông qua đấu thầu, không áp dụng chỉ định thầu; Thời hạn và tiến độ thanh toán bằng tiền phải được bảo đảm (thuộc kế hoạch đầu tư công hoặc từ nguồn thu được từ đấu giá đất).
Đối với BT thanh toán bằng quỹ đất thì tương tự BT thanh toán bằng tiền, tổng mức đầu tư dự án BT được xác định căn cứ thiết kế kỹ thuật và đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư; Quỹ đất thanh toán phải được xác định cụ thể về vị trí, diện tích, giá trị dự kiến tại các thời điểm lập báo cáo khả thi, ký kết hợp đồng và thời điểm thanh toán; Tại thời điểm thanh toán hợp đồng, cho phép áp dụng cơ chế bù trừ chênh lệch giữa giá trị BT và giá trị quỹ đất.
Về tình hình thực hiện dự án BT chuyển tiếp, theo Báo cáo số 7447/BKHĐT-QLĐT của Bộ Kế hoạch và Đầu tư có 162 dự án, phân loại vướng mắc thành ba nhóm: Nhóm 1: Vướng mắc phát sinh từ quy định của Luật về thanh toán cho nhà đầu tư. Nhóm 2: Vướng mắc phát sinh do thiếu quy định để thực hiện ở Nghị định hoặc quy định còn cách hiểu chưa thống nhất. Nhóm 3: Vướng mắc trong quá trình thực hiện hợp đồng.
Trong đó, vướng mắc phát sinh từ quy định của Luật về thanh toán cho nhà đầu tư gồm Giá trị quỹ đất dự kiến thanh toán vượt quá giá trị công trình BT; Chưa có quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục để bố trí ngân sách nhà nước để thanh toán hoặc bồi thường chấm dứt hợp đồng cho nhà đầu tư; Chưa có quy định dự án BT bằng tiền được thanh toán một số chi phí ngoài tổng mức đầu tư xây dựng; Chưa có phương án xử lý cho các hợp đồng có nội dung chưa phù hợp quy định tại thời điểm ký kết hợp đồng.
Vướng mắc phát sinh do thiếu quy định để thực hiện ở Nghị định hoặc quy định còn cách hiểu chưa thống nhất gồm việc sử dụng quỹ đất đã giải phóng mặt bằng hoặc trụ sở cơ quan Nhà nước để thanh toán cho nhà đầu tư; Quy định về việc sử dụng quỹ đất trong đó có phần diện tích đất công để thanh toán cho nhà đầu tư chưa cụ thể; Chưa có quy định để xử lý phần kinh phí nhà đầu tư đã ứng trước để thực hiện công tác giải phóng mặt bằng, hỗ trợ tái định của quỹ đất đối ứng; Chưa có quy định để điều chỉnh Báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế bản vẽ thi công, sửa đổi hợp đồng đối với dự án BT.
Vướng mắc trong quá trình thực hiện hợp đồng gồm chậm trễ đền bù, giải phóng mặt bằng; Nhà đầu tư chưa nộp giá trị nộp ngân sách đã chào tại hồ sơ dự thầu; Chậm thực hiện do xử lý, khắc phục theo kết luận của các cơ quan thanh tra, kiểm toán.
Đối với dự án BT thanh toán bằng ngân sách nhà nước, trường hợp hợp đồng dự án đã xác định chi phí lãi vay sau thời gian xây dựng, lợi nhuận hợp lý trong phương án tài chính và các khoản chi phí này đã được kiểm toán độc lập do cơ quan có thẩm quyền thuê thực hiện kiểm toán, thì các khoản này được tính vào tổng mức đầu tư dự án để thực hiện thanh toán mà không cần phải điều chỉnh chủ trương đầu tư, báo cáo nghiên cứu khả thi của dự án.
Đối với dự án thanh toán bằng quỹ đất, tài sản công, nếu đã được cơ quan thanh tra, kiểm toán nhà nước kết luận là phù hợp với quy định của pháp luật có hiệu lực tương ứng trong từng thời kỳ thì tiếp tục thực hiện và thanh toán theo Hợp đồng đã ký. Nếu đã hoàn thành, nghiệm thu công trình BT nhưng giá trị quỹ đất dự kiến để thanh toán không đủ thì thanh toán bằng nguồn ngân sách nhà nước hoặc nguồn thu được sau đấu giá quỹ đất, đấu giá tài sản công.
Tại Hội nghị, các đại biểu đã thảo luận về những vấn đề như: có nên hạn chế lĩnh vực đối với loại hợp đồng BT thanh toán bằng ngân sách nhà nước;, loại công trình được áp dụng cơ chế BT;; vấn đề xác định lợi nhuận của nhà đầu tư để tránh trường hợp lãi chồng lãi, lợi nhuận chồng lợi nhuận; Giải pháp giảm thiểu rủi ro chậm thanh toán dẫn đến phát sinh lãi trả chậm như các dự án BT giai đoạn trước do không kịp bố trí ngân sách nhà nước, không kịp tổ chức đấu giá tài sản công…
Đối với loại hợp đồng BT thanh toán bằng quỹ đất thì quỹ đất nào được sử dụng để thanh toán, nên có điều kiện gì; Xử lý giá trị chênh lệch giữa giá trị công trình BT và giá trị quỹ đất như thế nào; Giải pháp giảm thiểu rủi ro chậm thanh toán dẫn đến phát sinh lãi trả chậm như các dự án BT giai đoạn trước không giao đất đúng thời hạn…
Các ý kiến tại Hội nghị sẽ được Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp, nghiên cứu, tiếp thu sửa đổi tại Luật sửa đổi Luật Quy hoạch, Luật Đầu tư, Luật PPP và Luật đấu thầu để trình các cấp có thẩm quyền trước khi trình Quốc hội xem xét thông qua tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội Khóa XV theo quy trình 1 kỳ họp./.
Nguồn: https://www.mpi.gov.vn/portal/Pages/2024-9-19/Hoi-nghi-Hoan-thien-co-che-thuc-hien-loai-hop-dongoi4nx2.aspx