Đây là điều cần lý giải để biết yếu tố nào ảnh hưởng việc lựa chọn hướng ĐH nhiều hơn học nghề hay tham gia lao động.
10 ĐỊA PHƯƠNG TỶ LỆ HỌC SINH VÀO ĐH CAO NHẤT
Năm 2023, 10 địa phương có tỷ lệ phần trăm trúng tuyển ĐH nhập học so với học sinh (HS) tốt nghiệp THPT cao nhất cũng gần giống năm 2022, chỉ thay đổi thứ hạng các địa phương với nhau và Hưng Yên đã thay thế Hải Phòng, bị rớt khỏi bảng này.
Bình Dương tiếp tục là địa phương dẫn đầu cả nước, với tỷ lệ 80,61% đỗ ĐH, tăng 13,19% so với năm 2022. Đà Nẵng xếp thứ 2, tăng 1 bậc, với 72,2%, tăng 10,32%. TP.HCM xếp thứ 3, tăng 2 bậc, với 70,87%, tăng 10,13%. Hà Nội xếp thứ 4, tăng 5 bậc, với 70,81%, tăng 14%. Thừa Thiên-Huế xếp thứ 5, giảm 3 bậc, với 67,01%, tăng 4,44%. Nam Định xếp thứ 6, giữ nguyên hạng, với 65,63%, tăng 5,09%. Khánh Hòa xếp thứ 7, giảm 3 bậc, với 64,7%, tăng 3,94%. Bắc Ninh xếp thứ 8, tăng 2 bậc, với 64,56%, tăng 8,44%. Hưng Yên xếp thứ 9, tăng 2 bậc, với 63,2%, tăng 7,18%. Phú Yên xếp thứ 10, giảm 2 bậc, với 63,18%, tăng 6,08%. Đáng chú ý là Hải Phòng, năm 2022 xếp thứ 7, nhưng năm 2023 rớt khỏi top 10.
Năm 2023, với hơn 1 triệu thí sinh dự thi tốt nghiệp THPT đã có hơn 546.000 HS vào ĐH đạt tỷ lệ 53,1%, tăng gần 2% so với năm trước. Tăng tỷ lệ HS đỗ ĐH sau THPT phù hợp với xu hướng chung của thế giới. Và như vậy, trung bình cứ 100 HS đỗ tốt nghiệp có 53 HS vào ĐH, còn lại 47 HS sẽ học nghề, tham gia lao động ngay hoặc xuất khẩu lao động.
NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG
Theo đánh giá của Bộ GD-ĐT, tỷ lệ trúng tuyển nhập học ĐH tỷ lệ thuận với điều kiện kinh tế – xã hội của địa phương. Những vùng có tỷ lệ HS vào ĐH cao đều có điều kiện kinh tế – xã hội tốt hơn, có nhiều việc làm dành cho nhân lực có trình độ. Dẫn đầu là khu vực đồng bằng sông Hồng (64,44%), Đông Nam bộ (64,24%), Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung (52,65%), đồng bằng sông Cửu Long (52,45%), Tây nguyên (48,56%) và trung du miền núi phía bắc, thấp nhất (40,28%).
Trong 10 địa phương ở top 10, vùng đồng bằng sông Hồng có 4, gồm Hà Nội, Nam Định, Bắc Ninh, Hưng Yên; vùng Đông Nam bộ có hai, là Bình Dương và TP.HCM. Đây là những địa phương có kinh tế – xã hội phát triển, tập trung nhiều trường ĐH và có chất lượng giáo dục tốt. Thể hiện ở thứ hạng tổng điểm 3 môn toán, văn, ngoại ngữ và thứ hạng trung bình điểm thi cao.
Vùng Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung cũng có 4 địa phương nằm trong top 10, nhưng chất lượng giáo dục của các địa phương này chưa cao. Năm 2023, Phú Yên có thứ hạng tổng điểm toán, văn, ngoại ngữ xếp thứ 49; thứ hạng trung bình điểm thi xếp thứ 52, Khánh Hòa (30 – 43), Thừa Thiên-Huế (25 – 26) và Đà Nẵng (20 – 40), chỉ ở mức trên, dưới trung bình của cả nước. Những địa phương này có tỷ lệ trúng tuyển ĐH cao không chỉ nhờ vào chất lượng giáo dục, mà nhờ vào nhiều yếu tố khác nữa như điều kiện kinh tế – xã hội, tập trung nhiều trường ĐH, số HS đi xuất khẩu lao động chưa nhiều.
Trước hết, TP.Đà Nẵng, nơi có ĐH Đà Nẵng, một ĐH vùng lâu năm và đang chuẩn bị nâng lên thành ĐH quốc gia. Bên cạnh đó có nhiều trường tư thục như ĐH Duy Tân, ĐH FPT, ĐH Đông Á, ĐH Kiến trúc… Sinh viên tốt nghiệp ĐH ở đây có thể tìm việc ngay tại Đà Nẵng, các tỉnh miền Trung hay vào Đông Nam bộ. Vì vậy, HS Đà Nẵng yên tâm học ĐH tại TP.
Kế đến là Thừa Thiên-Huế, nơi có ĐH Huế, cũng là một ĐH vùng có truyền thống, đang xây dựng trở thành ĐH quốc gia. Có nhiều ngành nghề đào tạo, bên cạnh đó có các trường ĐH tư thục. Ngoài ra, trong những năm gần đây, HS các tỉnh ít về Huế học hơn. Đồng thời, Thừa Thiên-Huế định hướng lên TP trực thuộc T.Ư, có nhiều cơ hội việc làm, nên HS sau THPT của tỉnh này lựa chọn học ĐH nhiều hơn.
Thứ ba là Khánh Hòa, nơi có Trường ĐH Nha Trang, đào tạo đa ngành và nhiều chi nhánh của các trường ĐH trong nước. Khánh Hòa đang trong quá trình xây dựng trở thành TP trực thuộc T.Ư, có nhiều dự án và nhiều cơ hội việc làm nên HS tỉnh này yên tâm học ĐH ở đây hoặc Đông Nam bộ.
Còn đối với Phú Yên, chỉ có 3 cơ sở giáo dục ĐH, gồm Trường ĐH Phú Yên, Trường ĐH Xây dựng miền Trung và Học viện Ngân hàng. Tuy nhiên, Phú Yên gần Khánh Hòa và vùng Đông Nam bộ, nên HS tỉnh này nhiều em chọn ĐH là hướng đi sau THPT.
Ngoài ra, có một đặc điểm chung của những địa phương này là tinh thần hiếu học, việc đi du học nghề hay xuất khẩu lao động sau THPT chưa trở thành xu hướng như các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình.
BĂN KHOĂN TRƯỜNG HỢP QUẢNG BÌNH
Ở chiều ngược lại, top 10 địa phương có tỷ lệ HS vào ĐH thấp đều thuộc vùng miền núi và trung du phía bắc, có điều kiện phát triển kinh tế – xã hội khó khăn, chất lượng giáo dục còn thấp và có ít trường ĐH. Tuy nhiên Quảng Bình, một địa phương miền Trung có kinh tế – xã hội phát triển khá, nhưng tỷ lệ đỗ ĐH chỉ xấp xỉ 30%. Năm 2023, Quảng Bình xếp thứ 58, tụt 4 bậc, với 31,74%. Đây là vấn đề mà tỉnh này và ngành giáo dục cần có lời giải để việc phân luồng HS sau THPT hiệu quả và cân đối hơn, đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao của tỉnh.
Quảng Bình là tỉnh Bắc Trung bộ, HS có tinh thần hiếu học, có nhiều HS đoạt giải quốc gia và quốc tế. Năm 2023, chất lượng thi THPT của tỉnh này dưới mức trung bình của cả nước, nhưng vẫn cao hơn rất nhiều so với các tỉnh miền núi phía bắc. Về kinh tế – xã hội, nơi đây có du lịch và nghề biển phát triển, GRDP của Quảng Bình năm 2020 xếp thứ 37 so với cả nước. Tuy vậy, điều kiện về giáo dục ĐH và CĐ ở đây còn khó khăn. Tỉnh chỉ có Trường ĐH Quảng Bình, nhưng hằng năm cũng chỉ tuyển được vài trăm sinh viên. Từ chỗ trường có 21 ngành đào tạo với quy mô 10.000 sinh viên, đến nay chỉ còn 16 ngành ĐH và 3 ngành CĐ có quy mô 1.000 sinh viên. Quảng Bình chưa có công nghiệp, thương mại phát triển và những năm gần đây các cơ quan hành chính sự nghiệp lại giảm biên chế nên nhiều sinh viên ĐH khó tìm việc làm. Ngoài ra, Quảng Bình là địa phương đẩy mạnh xuất khẩu lao động đi Hàn Quốc, Nhật Bản, Úc… nên nhiều HS chọn hướng này, đi học nghề, trực tiếp lao động dẫn đến tỷ lệ trúng tuyển ĐH thấp.
GIẢI PHÁP CHO CÁC TỈNH VÙNG KHÓ
Phân luồng HS sau THCS, THPT ở nước ta những năm gần đây có nhiều tiến bộ, HS không còn coi ĐH là con đường duy nhất, mà có thể học nghề, tham gia lao động ở nhà máy hoặc xuất khẩu lao động. Tuy nhiên, trong thời đại công nghiệp 4.0 và kinh tế thị trường hiện đại, cần nhiều nhân lực có trình độ CĐ, ĐH trở lên, những địa phương có tỷ lệ trúng tuyển ĐH nhập học thấp sẽ ảnh hưởng nguồn nhân lực. Vì vậy, các địa phương này cần đánh giá thực trạng và có giải pháp phân luồng hiệu quả, hài hòa giữa các trình độ đào tạo. Cần đầu tư mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo của các trường ĐH trong vùng; nhà nước, doanh nghiệp tạo nhiều công ăn việc làm. Ngành giáo dục tăng cường giáo dục hướng nghiệp, để HS có hướng lập thân, lập nghiệp lâu dài. Chứ không chạy theo cái lợi trước mắt, như xuất khẩu lao động thu nhập cao, nhưng tiềm ẩn nhiều rủi ro và sau khi về nước không có nghề nghiệp, khó khăn cho sự phát triển bản thân, gia đình và đóng góp cho xã hội lâu dài.